Nghiên cứu mới đây cho thấy HCQ kết hợp với kẽm làm giảm tử vong do COVID-19

Hydroxychloroquine là một trong những phương pháp điều trị COVID-19 gây tranh cãi nhất trong suốt đại dịch. Giờ đây, một nghiên cứu mới lại cho thấy loại thuốc không đắt đỏ này mang lại một phương pháp điều trị an toàn cho nhiều người bị nhiễm virus.

HCQ kết hợp kẽm giảm tử vong do COVID
Những thảo luận về HCQ nằm dưới sự kiểm duyệt nghiêm ngặt khiến phương pháp dự phòng và điều trị COVID-19 bị trì hoãn. (Ảnh: Stock Footage Inc/Shutterstock)

Từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát, các bác sĩ trên khắp thế giới đã báo cáo tỷ lệ thành công cao bằng cách sử dụng phác đồ điều trị rẻ tiền gồm hydroxychloroquine (HCQ) và kẽm, thường kết hợp với kháng sinh khi điều trị tình trạng bội nhiễm vi trùng.

HCQ là một thể mang ion của kẽm, có nghĩa là nó giúp kẽm xâm nhập vào bên trong tế bào, nơi nó có thể ngăn chặn virus tái tạo. FDA đã ban hành giấy phép sử dụng khẩn cấp vào tháng 3 năm 2020 cho phép sử dụng chloroquine phosphate (CQ) và hydroxychloroquine sulfate (HCQ) để điều trị bệnh nhân nội trú nhiễm COVID-19. Mục đích ban đầu không đề cập đến kẽm và mô tả việc sử dụng HCQ vì các đặc tính kháng virus của riêng nó. Điều này dựa trên kết quả đầy hứa hẹn từ việc tiến hành thử nghiệm ban đầu tại các bệnh viện.

Giấy phép đó đã bị rút lại vào tháng 6 năm 2020 khi FDA cho rằng HCQ không có khả năng tạo ra tác dụng kháng virus có ý nghĩa cùng những rủi ro tiềm ẩn lớn hơn lợi ích.

Sự thay đổi xảy ra sau một nghiên cứu của Đại học Oxford ở Vương quốc Anh cho thấy HCQ hoạt động kém hiệu quả trong các phác đồ điều trị thông thường.

Thật không may, các vấn đề trong phương pháp nghiên cứu đánh giá hiệu quả và rủi ro của HCQ đã để lại những nghi ngờ kéo dài. Những vấn đề đó bao gồm liều lượng chưa rõ ràng và thiếu sự có mặt của kẽm, được cho là yếu tố quan trọng trong bất kỳ phác đồ điều trị có HCQ nào. Bài báo cáo mới được xuất bản trên tạp chí Y học Hoa kỳ vào tháng 1 năm 2021. Nó cho thấy việc sử dụng HCQ sớm kết hợp với kẽm có thể làm giảm số ca nhập viện và tử vong do COVID-19.

Trong khi HCQ là một loại thuốc gốc tương đối rẻ tiền với ít chi phí cho các nhà sản xuất thuốc, hàng trăm triệu đô la đã được đầu tư vào các loại vắc-xin và thuốc kháng virus khác mà các công ty thuốc hy vọng sẽ thu được lợi nhuận.

Chính trị hóa y học có hậu quả nghiêm trọng

Thảo luận về HCQ đã bị kiểm duyệt làm ảnh hưởng đến một số phương pháp điều trị giúp tăng cường hệ miễn dịch và làm giảm các bệnh truyền nhiễm virus khác. Điều đó xảy ra khi Google và nền tảng video Youtube bắt đầu lọc kết quả tìm kiếm. Giám đốc điều hành Youtube Susan Wojcicki đã công khai động thái đó vào tháng tư khi cô ấy nói với CNN rằng nền tảng video này sẽ “xóa những thông tin có vấn đề”.

Cô ấy nói rằng việc này sẽ bao gồm “bất kỳ điều gì không có căn cứ về mặt y khoa.”

“Vì vậy, khi mọi người nói ‘hãy uống vitamin C; hãy sử dụng nghệ, nó sẽ chữa khỏi bệnh’, đó là những ví dụ về những điều vi phạm chính sách của chúng tôi, ” cô nói.

Cô ấy khẳng định: “Bất cứ điều gì đi ngược lại với các khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới sẽ là vi phạm chính sách của chúng tôi.”

Vấn đề với chính sách này là nó có quyền kết luận việc kiểm duyệt thông tin đã được xác thực và chính trị hóa sức khỏe cộng đồng.

Trong khi những người thực hành y học thay thế đã thấy kiểu kiểm duyệt này, đối với nhiều bác sĩ đây là lần đầu tiên họ trải nghiệm nó như thế nào. Nhiều người đã hoàn toàn bị nó đánh lừa. Chỉ là một ví dụ trong số rất nhiều người, ngày 23 tháng 7 năm 2020, Tiến sĩ Harvey A. Risch, giáo sư dịch tễ học tại Trường Y học Cộng đồng Yale, đã xuất bản một đối ngược xã luận trên tạp chí Tin tức trong tuần, trong đó ông bày tỏ sự kinh hoàng và thất vọng của mình:

“Tôi là tác giả của hơn 300 ấn phẩm được bình duyệt và hiện đang giữ các vị trí cấp cao trong ban biên tập của một số tạp chí hàng đầu.

“Tôi thường ủng hộ các vị trí trong ngành y học chính thống, vì vậy tôi đã rất bối rối khi thấy rằng, giữa cuộc khủng hoảng, tôi đang đấu tranh để tìm một phương pháp điều trị có dữ liệu đầy đủ nhưng vì lý do ai đó không có sự hiểu biết đúng đắn về khoa học, nó đã bị đẩy sang lề.

“Kết quả là, hàng chục nghìn bệnh nhân mắc COVID-19 chết một cách không đáng… Tất nhiên, tôi đang đề cập đến loại thuốc hydroxychloroquine.

“Khi loại thuốc uống rẻ tiền này được dùng sớm lúc mắc bệnh, trước khi virus có thời gian nhân lên ngoài tầm kiểm soát, nó đã cho thấy hiệu quả cao, đặc biệt là khi dùng kết hợp với kháng sinh azithromycin hoặc doxycycline và bổ sung kẽm. ”

Bài đánh giá y học được xuất bản trên Tạp chí Y học Hoa Kỳ cho thấy việc sử dụng sớm HCQ và kẽm là một phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả. Các tác giả bao gồm tiến sĩ Risch, cũng như một danh sách dài các bác sĩ y khoa từ các bệnh viện trên khắp thế giới.

Tầm quan trọng của điều trị sớm bệnh nhân ngoại trú

Bài tổng quan có tiêu đề “Cơ sở sinh lý bệnh và lý do điều trị sớm cho bệnh nhân ngoại trú nhiễm SARS-CoV-2 (COVID-19)” chỉ ra rằng:

“Trong trường hợp không có kết quả thử nghiệm lâm sàng, các bác sĩ phải sử dụng những gì đã học về sinh lý bệnh của SARS-CoV-2 để xác định điều trị ngoại trú sớm cho bệnh nhân nhằm mục đích ngừa nhập viện hoặc tử vong…

“Cách tiếp cận trị liệu dựa trên các nguyên tắc bao gồm 1) giảm tái nhiễm, 2) điều trị kết hợp kháng virus, 3) điều hòa miễn dịch, 4) điều trị chống kết tập tiểu cầu / chống huyết khối và 5) sử dụng oxy, theo dõi và điều trị từ xa.”

Các tác giả nhấn mạnh rằng “Hầu hết bệnh nhân đến bệnh viện … với COVID-19 ban đầu không cần các hình thức chăm sóc y tế chuyên sâu” và do đó, “có thể tưởng tượng rằng một lượng bệnh nhân, nếu không nói là số nhiều, có thể tránh được nhập viện với cách tiếp cận điều trị đầu tiên tại nhà. ”

Họ cũng nhấn mạnh rằng vì có thể mất đến một tuần mới có kết quả xét nghiệm PCR, điều quan trọng là phải bắt đầu điều trị trước khi biết kết quả. Họ nói: “Đối với những bệnh nhân có các đặc điểm cơ bản của hội chứng (tức là sốt, đau nhức cơ thể, nghẹt mũi, mất vị giác và khứu giác, v.v.)… việc điều trị có thể giống như người được xác nhận đã nhiễm COVID-19.

Tất nhiên, điều đó chỉ đúng trong trường hợp quyết định điều trị là an toàn hơn các nguy cơ của bệnh, và họ tin rằng điều đó đúng với HCQ.

Kết hợp HCQ và kẽm

Về việc điều trị sớm bằng thuốc cho bệnh nhân cách ly tại nhà, các tác giả khuyến cáo sử dụng kết hợp HCQ và viên ngậm kẽm, cùng với một số loại thuốc khác (tùy thuộc vào triệu chứng).

Trước khi tôi đưa ra đánh giá những điều đó, hãy nhớ rằng tôi không khuyên bạn nhất thiết phải sử dụng tất cả chúng, vì trong một số trường hợp, có những lựa chọn thay thế an toàn hơn. Ở phần cuối của bài viết này, tôi sẽ tóm tắt khuyến nghị điều trị tại nhà của cá nhân tôi, mà tôi tin là một trong những cách điều trị tuyệt đối an toàn và hiệu quả nhất.

Trong bài báo của mình, tiến sĩ Risch và đồng tác giả của ông giải thích lý do hợp lý của việc sử dụng HCQ và kẽm như sau:

“Hydroxychloroquine (HCQ) là một loại thuốc chống sốt rét / kháng viêm làm suy giảm khả năng chuyển virion vào trong tế bào của người. HCQ cũng là một thể mang ion của kẽm có chức năng truyền tải kẽm vào nội bào để ngăn chặn RNA polymerase của RNA SARS-CoV-2, là enzyme cốt lõi của quá trình sao chép virus.

“Các nghiên cứu hồi cứu hiện đã hoàn thành và các thử nghiệm ngẫu nhiên cho thấy những phát hiện này:

“1. khi nhập viện muộn và trong thời gian ngắn, thuốc chống sốt rét dường như không hiệu quả.

“2. sử dụng thuốc sớm hơn khi nhập viện, thời gian kéo dài dần và ở bệnh nhân ngoại trú, thuốc chống sốt rét có thể làm giảm sự tiến triển của bệnh, ngăn ngừa nhập viện và có liên quan đến giảm tỷ lệ tử vong…

“Một phác đồ HCQ điển hình là 200 mg uống 2 lần một ngày trong 5 ngày và kéo dài đến 30 ngày nếu các triệu chứng vẫn còn. Nên sử dụng một lượng HCQ vừa đủ tối thiểu, vì với liều lượng quá cao, thuốc có thể cản trở phản ứng miễn dịch sớm đối với virus…

“Kẽm được biết là một chất ức chế sự nhân lên của virus corona… Liệu pháp có sẵn không độc này có thể được triển khai khi có những triệu chứng đầu tiên của nhiễm COVID-19. Viên ngậm kẽm có thể được dùng 5 lần một ngày trong tối đa 5 ngày và kéo dài nếu cần nếu các triệu chứng vẫn còn.

“Lượng kẽm nguyên tố dùng để ngậm < 25% trong một viên kẽm sulfat 220 mg mỗi ngày. Liều kẽm sulfat này đã được chứng tỏ hiệu quả khi kết hợp với thuốc chống sốt rét trong việc điều trị sớm ở bệnh nhân ngoại trú có nguy cơ cao nhiễm COVID-19 ”.

Điều đáng chú ý là ở những nơi khó có được hydroxychloroquine, chất bổ sung quercetin có thể là một thứ thay thế hữu ích (và thậm chí có thể tốt hơn), vì cơ chế hoạt động chính của nó giống với cơ chế hoạt động của thuốc này. Nó cũng có cơ chế kháng virus của riêng mình.

Kẽm là chìa khóa quan trọng

Mặc dù HCQ được chú ý nhiều, nhưng bản thân nó không phải là câu trả lời. Mà đó chính là kẽm. Cả HCQ và quercetin đều là các thể mang ion của kẽm, có nghĩa là chúng đưa kẽm vào tế bào, và có bằng chứng thuyết phục cho thấy lợi ích chính của giao thức HCQ thực sự đến từ kẽm, giúp ức chế hiệu quả sự nhân lên của virus.

It nhất về mặt lý thuyết, nếu được sử dụng sớm, kẽm cùng với thể mang ion của kẽm sẽ giúp giảm tải lượng virus và ngăn hệ thống miễn dịch trở nên quá tải. Vấn đề là kẽm không dễ dàng xâm nhập vào tế bào, đó là lý do tại sao cần có thể mang ion của kẽm.

Bằng chứng về điều này đã được trình bày trong một nghiên cứu vào tháng 9 năm 2020 trên Tạp chí Vi sinh Y học. Trong đó, họ so sánh kết quả ở những bệnh nhân nhập viện do COVID-19 được điều trị bằng một trong ba phác đồ: HCQ đơn trị liệu, Azithromycin đơn trị liệu hoặc phác đồ kết hợp hydroxychloroquine, azithromycin và kẽm.

Trong khi việc bổ sung kẽm không ảnh hưởng thời gian nằm viện, thời gian nằm ICU hoặc thời gian thở máy, các phân tích đơn biến cho thấy nó có tác dụng:

  • Tăng tý lệ xuất viện
  • Giảm nhu cầu hỗ trợ thở máy
  • Giảm tỷ lệ nhập khoa ICU
  • Giảm tỷ lệ chết lâm sàng đối với những bệnh nhân điều trị tại ICU
  • Giảm tỷ lệ tử vong

Các tác giả cho biết sau khi điều chỉnh thời điểm mà kẽm sulfat được thêm vào liệu trình của họ, tỷ lệ chênh lệch khi xuất viện tăng lên 1,53.

“Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng đầu tiên thử nghiệm trên động vật cho thấy kẽm sulfat kết hợp với hydroxychloroquine có thể đóng một vai trò trong việc điều trị COVID-19, ” bài báo viết.

Một bài báo khác đề cập đến vai trò quan trọng của kẽm được xuất bản trên tạp chí Giẩ thuyết Y học số tháng 9 năm 2020:

“Bên cạnh tác dụng kháng virus trực tiếp, CQ/HCQ [chloroquine và / hoặc hydroxychloroquine] có mục tiêu cụ thể đưa kẽm ngoại bào đến các lysosome nội bào, nơi nó can thiệp vào hoạt động RNA polymerase của RNA virus và sao chép virus.”

“Vì tình trạng thiếu kẽm thường xuyên xảy ra ở bệnh nhân cao tuổi và ở những người bị bệnh lý tim mạch, bệnh phổi mãn tính hoặc tiểu đường, chúng tôi đặt ra giả thuyết rằng bổ sung CQ/HCQ cộng với kẽm có thể có hiệu quả hơn trong việc giảm tỷ lệ mắc và tử vong do COVID-19 so với CQ hoặc HCQ đơn trị liệu. . Do đó, CQ/HCQ kết hợp với kẽm nên được coi là một nhánh nghiên cứu bổ sung cho các thử nghiệm lâm sàng đối với COVID-19 ”.

Thuốc kháng sinh, kháng viêm và các chất điều trị hỗ trợ khác

Ngoài HCQ và kẽm, tiến sĩ Risch và cộng sự cũng khuyến nghị sử dụng một trong hai loại kháng sinh – azithromycin hoặc doxycycline – chủ yếu để giải quyết tình trạng bội nhiễm. Azithromycin cũng có đặc tính kháng virus và tác dụng kháng viêm, trong khi doxycycline có “nhiều tác dụng nội bào có thể làm giảm sự nhân lên của virus, tổn thương tế bào và biểu hiện của các yếu tố gây viêm”.

Theo các tác giả, các nghiên cứu về COVID-19 sử dụng azithromycin cho thấy “giảm rõ rệt thời gian phát tán của virus, ít nhập viện hơn và giảm tỷ lệ tử vong khi kết hợp với HCQ.”

Mặc dù vậy, những người nghi ngờ hoặc mắc bệnh rối loạn nhịp tim và bất kỳ ai đang dùng thuốc chống chỉ định, nên kiểm tra kỹ lưỡng và ban đầu nên được đánh giá điện tâm đồ, trước khi sử dụng HCQ và / hoặc azithromycin. Đối với những người lo lắng về tác dụng của azithromycin đối với tim mạch, doxycycline là một lựa chọn thay thế tốt hơn vì nó không có tác động xấu đến tim. Mặt khác, nó có thể gây rối loạn tiêu hóa và viêm thực quản.

Một lưu ý quan trọng ở đây là mặc dù không được đề cập trong bài báo này, nhưng tất cả các loại thuốc kháng sinh đều có nhược điểm là phá vỡ hệ vi sinh vật đường ruột, do đó chỉ nên được sử dụng khi thực sự cần thiết.

Tiến sĩ Risch và cộng sự cũng khuyến nghị sử dụng thuốc kháng viêm, có tác dụng điều hòa miễn dịch và giúp giảm tác động của các cơn bão cytokine. Như đã giải thích trong bài báo của họ:

“Trong dịch COVID-19, một số triệu chứng đầu tiên về đường hô hấp là nghẹt mũi, ho và thở khò khè. Những đặc điểm này là do quá trình viêm và kích hoạt cytokine.

“Sử dụng sớm thuốc kháng viêm là một biện pháp can thiệp hợp lý cho những bệnh nhân mắc COVID-19 với những đặc điểm giống như hen suyễn cấp tính hoặc bệnh đường hô hấp cấp phản ứng… Một phác đồ dùng thuốc tiềm năng cho bệnh nhân ngoại trú bắt đầu từ ngày thứ 5 hoặc khi xuất hiện các triệu chứng hô hấp là prednisone 1 mg/kg mỗi ngày ngày trong 5 ngày có hoặc không giảm liều.”

Các điều trị hỗ trợ khác bao gồm:

  • Colchicine, một chất chống phân bào không steroid đã được chứng minh là làm giảm nồng độ D-dimer và cải thiện kết quả ở bệnh nhân nhập viện do COVID-19
  • Thuốc chống kết tập tiểu cầu như aspirin (81 mg mỗi ngày) hoặc heparin để điều trị tình trạng rối loạn đông máu đôi khi gặp ở người mắc COVID-19
  • Hỗ trợ oxy nếu cần

Để giảm nguy cơ tự tái nhiễm (vì virus lây nhiễm trong không khí), họ cũng khuyên nên mở cửa sổ và / hoặc ngoài trời nhiều hơn (giữ khoảng cách với người khác) mà không che mặt.

Hydroxychloroquine đã được chứng minh là an toàn

Trong khi các tiêu đề trên các phương tiện truyền thông cho rằng HCQ là một loại thuốc nguy hiểm đến tính mạng, nó thực sự có một hồ sơ dữ liệu an toàn rất mạnh mẽ từ nhiều thập kỷ trước. Trong một bài báo đăng trên Tạp chí Dịch tễ học Hoa Kỳ, tiến sĩ Risch đã xem xét một số nghiên cứu quy mô lớn chứng minh tính an toàn của thuốc.

Trong bài báo trên tạp chí Tin tức trong tuần của mình, ông cũng chỉ ra rằng Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ trích dẫn các báo cáo về tác dụng phụ của HCQ được cảnh báo có thể gây rối loạn nhịp tim, đặc biệt là khi dùng chung azithromycin, từ những bệnh nhân sử dụng HCQ trong thời gian dài để điều trị các bệnh mãn tính như lupus hoặc viêm khớp dạng thấp. Rủi ro như thế này là không chính xác khi dùng HCQ trong vài ngày hoặc vài tuần.

“Ngay cả khi tỷ lệ rối loạn nhịp tim thực sự cao hơn gấp 10 lần so với những gì được báo cáo, tác hại sẽ rất nhỏ so với tỷ lệ tử vong xảy ra ngay bây giờ ở những bệnh nhân có nguy cơ cao nhiễm COVID-19 không được điều trị đầy đủ,” Risch viết. 

“Thực tế này được chứng minh bởi một nghiên cứu của Đại học Oxford với hơn 320.000 bệnh nhân lớn tuổi dùng cả hydroxychloroquine và azithromycin, những người bị rối loạn nhịp tim với tỷ lệ tử vong thấp hơn 9 / 100,000… Một bài báo mới trên Tạp chí Y học Hoa Kỳ do các bác sĩ tim mạch trên thế giới thành lập hoàn toàn đồng ý với điều này ”.

Thật vậy, cái gọi là bằng chứng cho thấy HCQ gây ra các vấn đề về tim gây chết người đã được chứng minh là giả dối. Một nghiên cứu đã bị rút lại sau khi phát hiện ra dữ liệu đã được sửa đổi và các thử nghiệm quy mô lớn khác đều sử dụng liều lượng ở mức gây độc.

Trong khi các bác sĩ báo cáo việc sử dụng thuốc thành công với liều tiêu chuẩn khoảng 200 mg mỗi ngày trong vài ngày hoặc có thể vài tuần, các nghiên cứu như Thử nghiệm phục hồi Recovery Trial do quỹ Bill & Melinda Gates tài trợ (19) đã sử dụng 2,400 mg hydroxychloroquine trong thời gian 24 giờ đầu – cao hơn gấp ba đến sáu lần so với liều khuyến cáo hàng ngày – tiếp theo là 400 mg cứ 12 giờ một lần trong chín ngày nữa với liều tích lũy là 9,200 mg trong 10 ngày.

Tương tự, Thử nghiệm liên kết Solidarity Trial, do Tổ chức Y tế Thế giới dẫn đầu, đã sử dụng 2,000 mg vào ngày đầu tiên và liều duy trì là 8.800 mg trong 10 ngày. Những liều này đơn giản là quá cao.

Trong khi đó, ngày 1 tháng 7 năm 2020, phân tích hồi cứu trên 2.541 bệnh nhân ở Michigan cho thấy việc sử dụng hydroxychloroquine đơn độc đã giảm tỷ lệ tử vong xuống hơn một nửa, từ 26,4% xuống còn 13,5%. Bệnh nhân được dùng 400mg hydroxychloroquine hai lần vào ngày đầu tiên, tiếp theo là 200 mg hai lần mỗi ngày trong bốn ngày tiếp theo.

Qua quan sát, không ghi nhận tác dụng phụ liên quan đến tim mạch. Hydroxychloroquine kết hợp với azithromycin có tỷ lệ tử vong là 20,1%, và riêng azithromycin có tỷ lệ tử vong là 22,4%. Azithromycin được dùng liều 500 mg vào ngày đầu tiên, tiếp theo là 250 mg mỗi ngày một lần trong bốn ngày tiếp theo.

Theo các tác giả, “Sự kết hợp hydroxychloroquine + azithromycin được chỉ định cho một số bệnh nhân mắc COVID-19 nặng và có yếu tố nguy cơ tim mạch tối thiểu.” Thật không may, kẽm không được đưa vào thử nghiệm này.

Tiến sĩ Risch viết trên tạp chí Tin tức trong tuần: “Người bác sĩ sử dụng những loại thuốc này trước sự hoài nghi lớn như vậy thực sự là những anh hùng”.

“Bản thân tôi biết hai bác sĩ đã cứu sống hàng trăm bệnh nhân bằng những loại thuốc này nhưng hiện đang đối mặt với hội đồng y tế nhà nước để cứu lấy giấy phép hành nghề và danh tiếng của họ. Các trường hợp chống lại họ hoàn toàn không có giá trị khoa học…

“Như tất cả đều biết, thuốc đã trở nên chính trị hóa rất nhiều. Đối với nhiều người, nó được coi như một dấu hiệu của bản sắc chính trị, trên cả hai mặt của chính trị. Không ai cần nhắc họ rằng đây không phải là cách y học nên thực thi… Thực tế đòi hỏi một con mắt khoa học, rõ ràng về bằng chứng mà nó dựa vào ”

Với suy nghĩ đó, bằng chứng cho thấy HCQ có thể hữu ích chống lại SARS-CoV-2 bắt đầu từ năm 2005, khi bài báo “Chloroquine là một chất ức chế mạnh đối với sự lây nhiễm và lây lan của SARS Coronavirus” được xuất bản trên Tạp chí virus học.

“… Chloroquine có tác dụng kháng virus mạnh đối với sự lây nhiễm SARS-CoV trên tế bào động vật linh trưởng. Tác dụng ức chế này xảy ra khi các tế bào được điều trị bằng thuốc trước hoặc sau khi tiếp xúc với virus, cho thấy cả lợi thế dự phòng và điều trị ”

Nói cách khác, chloroquine hoạt động như một phương pháp cả dự phòng và điều trị chống lại SARS coronavirus. Đây chính xác là điều mà nhiều bác sĩ đã tìm với HCQ – một loại thuốc rất giống chloroquine nhưng có tính an toàn hơn – khi sử dụng để chống lại SARS-CoV-2.

Tiến sĩ Joseph Mercola là người sáng lập Mercola.com. Một bác sĩ chấn thương chỉnh hình, tác giả cuốn sách bán chạy nhất và nhận nhiều giải thưởng trong lĩnh vực sức khỏe tự nhiên, tầm nhìn chính của ông là thay đổi mô hình y tế hiện đại bằng cách cung cấp cho mọi người nguồn kiến thức quý giá để giúp họ kiểm soát sức khỏe của mình. Bài báo này ban đầu được xuất bản trên Mercola.com

Joseph Mercola
Thu ngân biên dịch

Xem thêm:

Chia sẻ bài viết này tới bạn bè của bạn