Gia đình Trưng vương
Gia đình Trưng vương là là một gia-đình kỳ-kiệt khác thường. Có thể nói: bao can-đảm, bao nghị-lực, bao nhiệt-thành, bao tinh-thần mãnh-liệt của dân-tộc Việt-nam hồi đó đều kết-tinh ở cả một nhà ấy.
Không kể cha là một Lạc-tướng của Hùng-vương, (hoặc Lạc-vương), còn từ mẹ đến em gái và chồng của Trưng-vương, mỗi người đều đóng một vai rất quan trọng ở thời-cục bấy giờ, đều có những thủ đoạn xoay-chuyển được thời-thế, đều dự một phần vào cuộc tái tạo non sông Hồng Lạc và đều để lại được: những trang lịch-sử hiển-hách phi thường.
Vậy, để giới-thiệu với các bạn, tôi xin lần-lượt thuật tiểu-truyện của vài nhân-vật trong gia-đình Trưng-vương :
Mẹ
Mẹ của Trưng-vương là Man-Thiện, sau được tôn làm hoàng thái-hậu, nên người ta thường kêu là Man hoàng thái-hậu,
Bà Man-Thiện là cháu ngoại nhà Hùng-vương, đẹp duyên với một Lạc-tướng triều Hùng. Nửa chừng đứt gánh, chiếc bóng quạnh hiu, nhưng vẫn vui việc bổn phận, bà gây-dựng cho hai con là Trưng Trắc và Trưng-Nhị được đến trưởng thành.
Sức-vóc mạnh-lớn, lại có tài lược thao và rộng độ lượng, bà lanh trí trong khi đối-phó với mọi việc thình lình xảy đến và đủ tư-cách để xử trí những việc khó-khăn.
Không thể chịu được những chính-sự tham bạo tàn khốc của thái-thú Tô Định, bà theo tiếng gọi của thời-thế, đứng làm đại biểu cho toàn thì bộ Giao-chỉ trước cái khuynh-hướng muốn chống lại văn-hóa Trung-quốc bấy giờ. Giúp đỡ ở bên bà, có hai con gái là Trưng-Trắc, Trưng-Nhị và rể là Thi-Sách.
Đồng chí bây giờ có người ở Đông-sàng, người ở Liêu-chiểu, người ở Phù-sa, họ đem nữ binh đến đứng dưới bóng cờ của bà, chịu quyền điều-khiển. Chia binh-mã do bà đã chiêu-tập trước và tân binh mới đến từ các nơi làm tả hữu hai đội, tất cả được 2.000 người. Ấy còn chưa kể đội quân của Thi-Sách mộ riêng, hưởng-ứng với bà làm thế ỷ giốc.
Sau khi bài hịch của bà đã tràn ảnh hưởng đến các động, các huyện, các châu, các quận rồi, thì các quan lang, các phụ-đạo, các hào-kiệt các nơi đều kéo binh đến hội. Quân-số bấy giờ đã lên đến con số đáng kể; độ trên sáu vạn người. Bến Nam-Nguyễn là chỗ đóng đồn, có thể kể như nơi đại bản-doanh vậy.
Vừa mới xuất quán, đám mây đen buồn đã kéo đến phủ nơi nhung-mạc: Tướng tinh Thi Sách ở Chu-diên đã tắt bóng trong cảnh đau buồn ! Tức thì Trưng-Trắc lên thay bà, cầm binh quyền, kéo quân thắng tiến đến Giao-chỉ, đánh châu-trị, thắng Tô-Định luôn mấy trận. Định phải nheo-nhóc, lếch-thếch chạy trốn về Tàu !
Cuộc khôi phục đã thành công, Man hoàng-thái hậu cùng các con được ngắm bông hoa độc-lập, không khỏi cảm-động trước tấm lòng sốt sắng của nhân dân sáu mươi năm thành.
Ba năm qua
Sau hơn 12 tháng qua ta hăng hái kháng chiến với ba mươi vạn binh của Mã Viện nhà Hán, hai bà Trưng phải thua vì quản ít, lương-thực thiếu và viện-binh lại không.
Hay tin chẳng lành ấy, Man hoàng-thái-hậu, bấy giờ đang đóng ở Mê-linh, liền thu nhặt quân tàn ở quận Phúc-lộc và các quận khác, định kéo lên cứu ứng cho Trưng-vương, nhưng bị quân Hán theo đánh tập hậu, nên bà phải tìm cái “thác trong” lòng trường-giang (mồng mười tháng chạp).
Hiện nay làng Nam-an, tức Nam-nguyễn được đổi tên lại có đền thờ bà. Mả Dạ ở làng ấy tức là nơi an-nghỉ nghìn thu của nữ Anh-hudng Man-Thiện (Bà gieo mình xuống sông chết, sau người ta vớt được ngọc-thể lên, chôn cất ở chỗ làng gọi là Mả Dạ) (1)
Em gái
Trong nhiều bài ở số báo này tuy đã nói đến bà Trưng-Nhị là em gái Trưng-vương, nhưng vì chỗ nào bà cũng ở vào địa vị pho-nhị, nên đây, ta tên dành lấy một chỗ danh-dự để phần bà.
Tại sao đặt tên là Nhị Theo mục khảo-dị ở phần chữ hán trong cuốn Trương-vương lịch sử của Cúc-Hương Hoàng tiên-sinh, thi chính thực tên bà là Nhì, chứ không phải Nhị. Vì trong Thần tích ở làng Lâu-thượng, huyện Bạch-hạc, tỉnh Phú-thọ có nói rằng nhà bà làm nghề chăn tằm quen gọi cái kén dày là kén chắc, kén mỏng là kén nhì, nên khi hai bà Trưng sinh ra, nhà bèn ứng dụng ngay hai tiếng thuật-ngữ ấy mà đặt tên chị là Chắc (2) và em là Nhì (T.V.L.S. trang 24-25)…
Lại theo bản Thần-tích của làng Hạ lôi (xưa là Cổ-lai), phủ Yên-lăng, tỉnh Phúc-yên, thì bà với bà Trưng-Trắc là hai chị em sinh đôi (sinh ngày mồng một, tháng tám, năm Giáp-tuất).
Khi bà Trưng Trắc tuyên thệ bốn điều trước lúc xuất quân đánh Tô-Định, có điều thứ tư rằng: “Thề hễ ai có công to thì gả em là Trưng Nhị cho” (3). Tỏ ra hai bà thật đã quyết chí hi-sinh hết thảy ngay từ khi mới ghé vai gánh việc quốc-gia.
Giúp chị trong công-việc binh cơ, tướng lược, bà Nhị đi chiêu dụ được đảng bà Nguyễn Đào Nương, đảng ông Cao-Doãn và đảng Ông Trương-Quán, đều là những đảng nghĩa-binh ở đường thời.
Nhờ thế, quân thanh của chị em bà ngày một mạnh-mẽ và lừng-lẫy thêm lên. Bấy giờ đã có hơn ba vạn nam nữ chiến sĩ đứng bên cờ nghĩa.
Rồi các quận Nhật-nam, Cửu-chân, Hợp-phố đều hưởng-ứng theo. Bà cùng chị cưỡi voi, xông pha tên đạn, đánh đuổi được Tô Định, hạ được chân-trị Giao-chi, lược định được 65 thành.
Bà là người, tài cao, chí lớn, lập được nhiều công lao trong cuộc khôi-phục nước Văn-lang.
Mặc dàu bà cùng chị và các chiến nam nữ kháng chiến một cách can đảm và anh-dũng đến đâu, cũng không thể lấy ít địch nhiều nên trước sức tiến công của 80 vạn quân Mã Viện, bà cùng chị phải rút lui về Cấm Khê.
Ngày nay hễ nói đến sự nghiệp Trưng vương người ta không bao giờ quên nhắc tới lịch sử vẻ vang của Binh-khói công-chua (4) Trưng Nhị, người cùng chị đã gieo mình xuống sông Hát, chết vì nghĩa-vụ, vì lý-tuởng, vì quốc gia..!
Chồng
Chẳng nói, ai cũng rõ chồng bà Trưng vương là Thi-Sách, người huyện Châu-diên.
Trong cuộc khởi nghĩa đánh Tô Định, chính Thi Sách là một tay trọng yếu và đã mộ được một đội quân để hưởng ứng với bà nhạc là Man-Thiện như đã nói ở trên,
Đứng trước ngọn lửa tàn bạo của thái thú Giao chỉ bấy giờ, Thi Sách muốn hãy đi đường ôn-hòa trước đã, nên mới dùng từ-lệnh hòng khuyên Tô Định sửa đổi chính sự bằng những lời tâm huyết sau đây:
“Loát nhĩ Nam-phương, ức. vạn sinh-linh diệc giai Triều-đình sích-tử. Thừa lưu, tuyên hỏa, tất dĩ ái dân vi tiên.
Tử kim bi chính, trung ngôn, gia mưu gia kiến tội, bôn tẩu, thừa thuận giả kiển thưởng, cơ thiếp đắc dĩ lộng chính, biền-bể đắc dĩ thiện quyền ! Tuy ái dân chi thuyết vô thời vô chi, nhi tồn hạ chỉ tâm dũ nhật dũ liệt ! Tuấn dân cao dĩ phong kỳ tài, kiệt dân lực dĩ cung kỳ dục ! Tự thị phú cường, lẫm hữu thái-a chi thể : bất trị khuynh-bại, thì như triêu lộ chi nguy ! Như bất tề chi dĩ khoan, tắc ngug công lập chi hĩ !”
– Trích trong Trưng vương lịch-sử (5) trang 6-7.
Dịch
( Phương nam tuy nhỏ mọn, nhưng ức-vạn sinh-linh cũng là con đỏ của Triều-đình cả. Kẻ đi tuyên dương đức hóa, cốt phải tập việc yêu dân làm đầu.
Người này làm việc chính trị, bắt tội người nói thẳng, bày mưu hay, thưởng kẻ luồn lọt bợ-đỡ cho hầu gái được nhúng vào chính sự, cho nịnh thần được chuyên quyền. Lúc nào cũng bô bô nói chuyện thương dân, thế mà tấm lòng bóc-lột kẻ dưới càng ngày càng dữ! Rán mỡ dân đề làm giàu, rút sức dân để thỏa lòng dục! Cậy mình mạnh thế như gươm thái-a sắc-bén, nào biết cơ minh nguy-ngập như giọt sương sớm dễ tan ! Nếu không sửa đổi, làm theo rộng-rãi, thì sẽ nguy vong đến nơi đây !
Nhưng Vô hiệu Thư ấy, đối với Tô-Định, chỉ như một bức tối-hậu-thư vì vậy, Thi-Sách cùng với hai bà Trưng và bà Man-Thiện phải dùng đến thủ đoạn võ-trang khởi nghĩa. Khi đóng quân ở Chu-diên, ông bày trận sơ lược, bị quân Tô Định kéo đến đánh phá, rồi giết mất!
Ông dâng trọn mình làm hi-sinh trên bàn thờ quốc-gia, trút lại trách nhậm thù nhà, hờn nước xuống hai vai bà vợ: Trung-Trắc !
(Tham khảo các sách: Man hoàng-thái-hậu thần-tích, Nhị Trưng thần tích, Trưng-vương lịch-sử của Cúc Hương Hoàng tiên-sinh in năm 1937, Nam-quốc nữ lưu trang 1-8, của ông Sở-Cuồng in năm 1929).
HOA BẰNG
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
1) Theo trong Trưng-vương lịch sử của Hoàng Các-Hương tiên sinh, thì mẹ của bà Trưng họ Trần, húy Đoan.
2) Chữ “Chắc” viết chữ này là theo tiếng nam ta, nghĩa là chắc nịch, không lép. Còn chữ “Trắc” viết tr là theo chữ “trắc” trong hán-văn, nghĩa là nghiêng, là bên cạnh.
3) Còn ba điều thề nữa là: thề khôi phục nghiệp lớn nhà Hùng, thề gả thù cho Thi-Sách, thể giết cho kỳ được Tô Định.
4) Tước hiệu do Trưng vương phong cho bà khi lên làm vua.