Kỳ 6: Long tộc, long mạch thời Trần
Triều đại kế thừa tinh hoa của nhà Lý rồi đạt đến đỉnh cao của nền văn trị cũng như võ công. Các vua nhà Trần còn là những vị vua hiếm hoi là bậc chân tu đắc Đạo.
Đặc điểm rồng thời Trần, thời đại thượng võ
Sau khi đắc được ngôi đất long mạch, nhà Trần đã lên ngôi báu nhờ việc đưa Trần Cảnh 8 tuổi vào cung hầu Lý Chiêu Hoàng, ứng vào câu nói của thầy địa lý trước đây “phấn đại yên hoa đối diện sinh”, nhờ vào nhan sắc mà lấy được thiên hạ. Long tộc cũng bắt đầu triển hiện bảo hộ cho dòng họ này, còn ghi lại trong sử như sau:
“Nhâm Dần, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 11 [1242] Tháng 12, rồng vàng hiện.”
(Đại Việt sử ký toàn thư)
Xét về hình tượng, thì rồng thời nhà Trần có vẻ cương mãnh uy vũ hơn thời nhà Lý với thân hình to lớn hơn, móng vuốt to hơn, chân ngắn hơn và râu vảy đều toát ra vẻ cứng cáp chứ không uyển chuyển như rồng thời Lý. Nhìn tổng quát ta có thể thấy con rồng nhà Trần mang tính Dương nhiều hơn rồng nhà Lý, vốn thể hiện một sự cân bằng Âm Dương hoàn hảo.
Theo lịch sử, nhà Trần nổi danh với 3 lần chống Nguyên Mông lừng lẫy và vô số cuộc chiến khác với lân bang, nên có thể nhận định rằng đây là một loài rồng thiên về võ nghiệp chứ không phải văn trị. Võ nghiệp này là uy lực của Thiên long dùng để trấn áp tà ma, vì long tộc bảo hộ người tu luyện và duy hộ Phật Pháp. Do đó vào thời Trần thế kỷ 13, Mông Cổ hùng mạnh cát cứ nhiều nơi nhưng đã dừng vó ngựa trên đất Đại Việt.
Tiếp nối truyền thống tốt đẹp hoằng dương Phật pháp của nhà Lý, các hoàng đế nhà Trần lại càng làm tốt hơn nữa với việc chính hoàng đế đi tu, đắc Đạo, và khai mở thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Nhờ oai lực của Chính Pháp với công đức của các hoàng đế mà nhà Trần đã an nhiên vượt qua bao trận binh lửa, xây dựng một vương triều thịnh trị lâu dài trong lịch sử.
Thổ phúc tàng kim, lấy được thiên hạ không đổ máu
Sau khi nhà Lý suy vong, Thiên mệnh bắt đầu dịch chuyển sang một dòng họ khác có Đức lớn để nối tiếp ngôi vua trị vì thiên hạ. Nhà họ Trần sau nhiều đời tích đức đủ dầy, được Trời phú cho ngôi đất long mạch có thể lấy được thiên hạ một cách dễ dàng. Âu đó là Phúc trạch của họ Trần và cũng là cái Phúc của nhà Lý cùng con dân Đại Việt, nhờ suốt hơn 200 năm tín Phật thờ Trời nên việc thay đổi triều đại diễn ra nhẹ nhàng không đổ máu.
Truyền kỳ về những vị vua đắc Đạo
Truyền thống sùng thượng Phật Pháp từ thời Lý đã thăng hoa khi chính các vua Trần đích thân đi tu và đắc Đạo, lập nên một thiền phái mới.
Vua Trần Thái Tông, khai sáng triều đại, thiền sư đầu tiên
Vị vua đầu tiên đắc Đạo chính là vua khai sáng Trần triều, Trần Thái Tông. Ông lên ngôi ngày mùng 10 tháng 12 năm Ất Dậu (1226), niên hiệu Kiến Trung, là một vị hoàng đế thiên tư mẫn tiệp, thông minh nhân hậu, đặc biệt rất quan tâm đến Phật pháp và việc tu luyện. Ông xem ngôi vua như một nghĩa vụ phải làm, nhưng trong lòng vẫn canh cánh việc tu hành giải thoát.
10 năm sau khi lên ngôi, niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ năm (1236), nửa đêm vua Thái Tông vượt thành sang sông đi về hướng Đông, thẳng lên chùa Vân Yên núi Yên Tử, vào tham kiến Quốc sư Trúc Lâm Viên Chứng. Đến nơi thanh nhã u tịch này, vua càng dốc chí tu tập nơi Thiền học. Cơ duyên đến khi vua từng đọc kinh Kim Cang đến đoạn “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, vừa để quyển kinh xuống trầm ngâm thì đột nhiên đại ngộ. Sau đó vua đem chỗ sở ngộ của mình viết thành bài ca Thiền Tông Chỉ Nam. Sau đó vua gặp Thiền sư Thiên Phong bàn luật Phật pháp, lại càng thêm tinh tấn.
Ở bên cạnh cung, vua cho mở chùa Tư Phúc làm chỗ thắp hương tu hành, đồng thời mời bậc cao tăng trong hàng thiền giáo trụ trì để tiện việc thưa hỏi. Hằng ngày vua cúng trai tăng cho hơn 500 vị, độ làm đệ tử hơn 30 người.
Vua Trần Thánh Tông, sáng trị nước, tiếp nối tu hành
Nối tiếp truyền thống tu học kế thừa từ cha, vua Trần Thánh Tông cũng bước vào con đường tu hành. Ngài cũng đạt được những thành tựu trên đường tu và ngộ Đạo. Trần Thánh Tông lên ngôi ngày 15 tháng 02 năm Mậu Ngọ (1258), đổi niên hiệu Thiệu Long. Vua có tài năng và trí huệ lớn, xem rộng mọi sách vở và cũng lại rất tinh thông nội điển (kinh điển nhà Phật).
Ông ở ngôi hai mươi năm, rồi nhường ngôi cho Nhân Tông và xuất gia ở chùa Tư Phúc, bái Quốc sư Đại Đăng làm thầy. Hằng ngày ngài thường bàn luận với các thiền khách, được truyền sâu ý nghĩa thiền, lấy hiệu là Vô Nhị Thượng Nhân. Đến nay vẫn còn lưu truyền một số giai thoại thể hiện sở ngộ của ngài lúc tu học.
Khi Vua mở Phật Sự Đại Minh Lục, có cảm ứng mà sáng tác một bài thơ:
“Hơn bốn mươi năm một mảnh thành
Vượt khỏi lao quan muôn lớp ngăn
Động như hang trống vang tiếng gió
Tĩnh tợ đầm yên rọi ánh trăng
Trong câu năm huyền mình thông được
Chữ thập đầu đường mặc dọc ngang
Có người hỏi ta tin tức ấy?
Mây ở trời xanh nước trong bình.” (Thánh đăng ngữ lục)
Ngài đã tu học đến cảnh giới cao của Thiền tông, đúng năm 40 tuổi đã đột phá khỏi trói buộc của ngoại vật, đến cảnh giới tâm vô vi thanh tịnh tựa như một cái hang trống và một cái đầm yên lặng phản chiếu ánh trăng. Dù cho gió có động hay trăng lúc sáng lúc mờ thì bản tâm của người tu Phật ấy vẫn vĩnh viễn an nhiên tự tại không hề ô nhiễm, nhận thức được cái Đạo lớn trong trời đất, như mây kia trôi trên trời hay nước ở trong bình cũng chỉ là một mà thôi.
Phật Hoàng Trần Nhân Tông, hoàng đế đắc Đạo, khai tông lập phái
Trải hai đời vua tu Thiền đắc Đạo, đến đời hoàng đế thứ ba Trần Nhân Tông, sự tu hành của các vua Trần đã thật sự đạt đến cảnh giới rất cao vì vua Trần Nhân Tông đã khai sáng nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nổi danh. Vua lên ngôi ngày 12 tháng 02 năm Mậu Dần (1278), đổi niên hiệu Thiệu Bảo. Từ trước khi sinh ra, cuộc đời Trần Nhân Tông đã có nhiều giai thoại truyền kỳ; có lẽ ông là người mang đại sứ mệnh của Trời mà giáng sinh nơi nước Nam?
“Trước kia Hoàng Thái Hậu Nguyên Thánh từng mộng thấy thần nhân trao cho hai thanh kiếm, bảo: Thượng đế có sắc, cho ngươi tự chọn lấy! Thái Hậu bất chợt bật cười, bổng được cây kiếm ngắn, do đó có thai. Gặp tháng dưỡng thai, bà chẳng chọn lựa món gì kỵ thai; nhà bếp dâng lên món chi bà cứ ăn mà thai vẫn không sao, bà biết là có sức thần trợ giúp. Đến khi Ngài được sinh ra, sắc như vàng ròng, Thánh Tông đặt tên là Kim Phật. Bên vai phải của Ngài có nốt ruồi đen như hạt đậu to, những người xem biết, nói: Ngày sau ắt hay gánh vác việc lớn.” (Thánh đăng ngữ lục)
Dù sống trong cung vàng điện ngọc và là Thái tử kế thừa ngôi báu, tâm của Ngài vẫn chỉ một mực hướng về tu hành:
Năm 16 tuổi được lập làm Hoàng Thái Tử, Ngài cố từ chối mấy lần, xin cho em mình thay thế đều không được vua cha chấp nhận. Thánh Tông cưới trưởng nữ của Quốc mẫu Nguyên Từ cho Ngài, tức Thái hậu Khâm Từ sau này. Tuy sống trong cảnh vui hòa hạnh phúc mà tâm Ngài vẫn hướng về đường tu.
Tới khi lên ngôi, dù ở trong cảnh vinh hoa tột bực, nhưng Ngài vẫn tự giữ mình thanh tịnh. Có lần Ngài ngủ trưa trong chùa Tư Phúc ở đại nội, chợt mộng thấy từ nơi rốn mọc lên hoa sen vàng, lớn như bánh xe, trên hoa có đức Phật vàng; một người đứng bên cạnh chỉ Ngài, nói: Biết đức Phật này chăng? Đức Phật Biến Chiếu đấy! Ngay đó, Ngài liền giật mình tỉnh dậy, đem điềm mộng trình lên vua cha. Thánh Tông rất mừng cho là việc khác thường.
Do đó, Ngài thường ăn chay lạt, thân thể ốm gầy, Thánh Tông thấy lạ bèn hỏi. Ngài thưa thật nguyên do với vua cha. Thánh Tông khóc, bảo: Ta nay già rồi, trông cậy một mình con; nếu con làm như thế thì sự nghiệp của Tổ tông sẽ ra sao? Ngài nghe vua cha nói vậy cũng rơi nước mắt.” (Thánh đăng ngữ lục)
Sau khi thành công đẩy lùi quân Nguyên Mông, nhường ngôi cho con là Anh Tông, bấy giờ Nhân Tông quyết chí lên núi Yên Tử để tu cho thành đạo mới trở ra. Bức tranh vẽ cảnh Ngài đắc Đạo dời núi Yên Tử đến nay vẫn là một kiệt tác.
Trải qua ngàn năm đến nay, hậu thế vẫn không thôi cảm thán trước thành tựu vĩ đại về văn trị và võ nghiệp thời nhà Trần. Chưa từng có một triều đại nào mà danh vọng nước ta ở mức gần như ngang vai với các vua Trung Quốc. Quan trọng hơn là sự hùng mạnh đó kéo dài liên tục năm đời vua mới suy, điều chưa từng thấy trước và sau đó. Ấy là do người nhà Trần giỏi hơn các triều đại khác chăng? hay là nhà Trần có điều gì đặc biệt hơn chăng?
Đỉnh cao của nhà Trần bắt đầu từ thời gian Thái Tông bắt đầu tu luyện và đi xuống vào thời Minh Tông khi mà con cháu của ông ta không một ai tu hành nghiêm túc như cha ông. Vậy mới thấy phúc phận của một dòng họ cầm quyền ắt hẳn nằm trong cách sinh sống và cai trị của hoàng đế, mà muốn sinh sống cai trị đúng thì chỉ có tu hành và dùng Chính Pháp của Như Lai soi sáng thêm cho trí huệ bản thân mới làm được vậy.
Có thể nói rằng những kỳ công vĩ tích của nhà Trần hiển nhiên cũng là từ phúc phận và sự bảo hộ do quân chủ tu hành mà có. Điều đó vô cùng rõ ràng trong lịch sử, và ta có thể dễ dàng thấy khi so sánh các triều đại với nhau. Nhưng đáng buồn thay, đến tận nghìn năm sau mà các bậc chăn dân của đất nước này vẫn còn u mê cho rằng tu hành là chuyện viển vông và tìm cách thay đổi niềm tin vào Thần Phật của chúng dân trăm họ. Phúc phận nào sẽ dành cho những dân tộc và kẻ cầm quyền không tin Thần Phật?