Sau chiến tranh, hành trình trở về nhà là cả cuộc đời
Thủy thủ Lawrence Markworth đã vội vàng nhảy xuống con thuyền đánh cá voi để giúp tìm kiếm một phi công Mỹ bị bắn rơi xuống biển gần Việt Nam vào năm 1964. Chiến tranh hồi ấy đang diễn ra gay gắt.
“Chúng tôi phát hiện một chiếc mũ bay đang nhấp nhô trên mặt nước, và có vẻ như anh ấy còn sống. Tất cả chúng tôi đều vui mừng: ‘Chúng ta sẽ giải cứu một phi công. Điều này thật tuyệt,’” ông nhớ lại.
“Chúng tôi tới được chỗ anh… nhưng anh ấy đã qua đời. Tôi nhớ mọi người đã nâng anh lên tàu, và con tàu chìm trong im lặng. Đó là … Tôi không biết nữa, vẫn rất khó khăn để nói về những điều này.”
Sự ra đi của viên phi công đã khiến ông nhớ lại cái chết của cha mình, điều mà ông vẫn tự trách bản thân. Một tuần trước khi ông nhận được lệnh điều động, ông Markworth đã thực hiện hô hấp nhân tạo cho cha mình tại nhà. Cha của ông đã không qua khỏi, và ông Markworth đã mang theo nỗi đau và sự tự trách bản thân khi nhập ngũ. Ông đã trở lại tiểu bang hai năm sau đó ở tuổi 20 với chấn thương thời chiến chồng chất.
“Chúng tôi không được dạy cách giải quyết những vấn đề này ở đất nước này. Vì vậy, hành trình về nhà là cả cuộc đời,” ông Markworth nói với The Epoch Times hôm 07/11.
Ông Markworth gia nhập Hải quân vào tháng 11/1962 ở tuổi 18 và phục vụ trên tàu USS Castor, phụ việc cho một thợ điện trong hai năm, đóng quân tại Nhật Bản.
Năm nay 77 tuổi, ông đã trải qua hàng thập niên chiến đấu với nghiện ngập và những vết thương tinh thần và cảm giác bị tổ quốc phản bội. Ông cũng đã đấu tranh với Bộ Cựu Chiến Binh (VA) trong nhiều năm vì phơi nhiễm chất độc màu da cam và những căn bệnh mà ông đã mắc sau đó.
“Trở về còn khó hơn nhiều so với khi ra trận,” ông nói. “Ngày xuất ngũ, tôi vui lắm. Thế nhưng tôi không nhận ra rằng đó sẽ là một trong những khoảng thời gian đen tối nhất của cuộc đời mình.”
Nhà trị liệu tâm lý Ed Tick, người đã làm việc với các cựu chiến binh trong 45 năm, cho biết cách đối đãi của VA đối với các cựu chiến binh ở Hoa Kỳ là “không thích hợp và chủ yếu phụ thuộc vào thuốc men – điều mà các cựu chiến binh không muốn.”
Ông đã dành nhiều thập niên để nghiên cứu cách các nền văn hóa khác nhau giúp chữa lành các chiến binh trở về của họ, bao gồm cả việc học nghề 11 năm với một pháp sư người Mỹ bản địa.
“Phục vụ quân đội và chiến tranh là những trải nghiệm thấm sâu đến mức chúng sống trong tâm trí và trái tim của các cựu chiến binh – như những điều quan trọng và mãnh liệt nhất mà họ từng trải qua. Vì vậy, đối với những người như chúng ta thì vâng, cuộc chiến đã kết thúc. Nhưng đối với họ thì không, nó chưa kết thúc,” ông Tick nói.
Các triệu chứng tổn thương tinh thần bao gồm xấu hổ, cảm giác tội lỗi, bị phản bội, đau buồn sâu sắc, và sự chán ghét.
“Chúng ta thực sự phải làm cho các chiến binh tại ngũ về sau khi trở thành các cựu chiến binh cảm thấy an toàn và được bảo vệ để họ có thể khám phá sâu sắc lương tâm và hệ thống giá trị của chính họ, cũng như khám phá cảm nhận của họ về những gì họ đã làm. Và sau đó cho họ cơ hội để khôi phục và phục hồi những khía cạnh đạo đức ẩn sâu hơn trong con người họ.”
Ông Markworth vào đại học sau khi rời Hải quân vào tháng 08/1966 và đã mất bảy năm để có thể lấy được bằng cử nhân.
“Tôi đã thực sự phải đấu tranh với chính mình bởi vì tôi không biết mình là ai và tôi đã đánh mất một phần linh hồn của mình.” Ông nói ông đã phải “tham gia hết mình” vào phong trào phản chiến ở San Francisco để làm nguôi ngoai nỗi tức giận và xấu hổ, vì ông từng phục vụ ở Việt Nam và ông từng là một phần của vấn đề này.
“Tôi đã trở thành một người cấp tiến. Tôi đã từng là một hippie. Tôi đã từng là một người theo chủ nghĩa Marx cấp tiến. Đó là một con đường khác giúp tôi xoa dịu nỗi đau.”
Lần đầu tiên ông tìm kiếm sự giúp đỡ của một nhà trị liệu là vào năm 1969, sau khi nói với bạn gái mình lúc đó rằng ông đang lên kế hoạch tự tử. Ông Markworth cho biết buổi trị liệu này đã cứu mạng ông, và ông đã tham gia nhiều đợt điều trị kể từ khi ấy.
Tuy nhiên, ông cho biết chuyến đi đến Việt Nam năm 2017 là “sự chữa lành hiệu quả nhất” đối với ông.
Lúc đầu, ông còn e ngại về chuyến đi vì không được chào đón. Ông Markworth nói, “Nhưng mọi thứ hoàn toàn ngược lại. Chúng tôi đã đi bộ xuống phố, và họ bước lại gần – và những cựu chiến binh, một số bị tàn tật, đã bắt tay với chúng tôi.”
“Và sau đó khi chúng tôi gặp họ – những người thuộc quân đội Bắc Việt Nam, hoặc Việt Cộng – họ đều nói: ‘Lúc ấy chúng ta đều làm những gì chúng ta cho là đúng. Chúng ta là những chiến binh. Và bây giờ các ông đều là bạn của chúng tôi.’”
6 bước cho sự trở về của một chiến binh
Ông Tick đã phát triển một lộ trình sáu bước để chữa lành khi các cựu chiến binh trở về nhà, dựa trên nghiên cứu và kinh nghiệm của ông từ các nền văn hóa khác. Ông làm theo các bước này trong các đợt ở ẩn của mình ở Hoa Kỳ, cũng như các chuyến đi ra hải ngoại, và mô tả đầy đủ những kinh nghiệm này trong cuốn sách “Warrior’s Return” (“Sự Trở Về của Người Chiến Binh”).
Bước đầu tiên là để cho người chiến binh được ở một mình và quan tâm đến họ; ở bước này chiến binh được chăm sóc và có thể nghỉ ngơi.
Ông Tick nói, “Thật sai lầm khi đưa các chiến binh về nhà và đưa họ quay trở lại ngay với gia đình trong cộng đồng của họ – vì chiến tranh vẫn còn bên trong họ. Nhiệm vụ đầu tiên của cộng đồng hoặc bộ tộc là đưa chiến tranh ra khỏi con người chiến binh đó.”
Bước thứ hai được gọi là sự khẳng định định mệnh và yêu cầu người cựu chiến binh thừa nhận những gì họ đã làm và những gì đã xảy đến với họ. “Đây là thực tế mà tôi đã trải qua và đây là những gì mà tôi phải sống tiếp với,” ông nói.
Bước thứ ba là giai đoạn thanh lọc và làm sạch một cách mạnh mẽ. Ông Tick cho biết người Mỹ bản địa sử dụng các căn nhà đổ mồ hôi (sweat lodge) và tìm kiếm những trải nghiệm tâm linh với một vị thần hộ mệnh, trong khi truyền thống Do Thái-Kitô Giáo ban đầu sử dụng lửa và nước để tẩy rửa bản thân và vũ khí của họ, và các linh mục để giúp thanh tẩy họ. “Và họ không được phép về nhà cho đến khi họ đã trải qua quá trình đó,” ông Tick cho biết.
Bước thứ tư là kể chuyện, thông qua trò chuyện, sáng tác văn học, vẽ tranh, hoặc bất kỳ hình thức nghệ thuật nào.
Ông Tick nói, “Các samurai Nhật Bản đã đem đến cho chúng ta một số họa sĩ phong cảnh và thi sĩ Haiku vĩ đại nhất. Truyền thống chiến binh Celtic quy định rằng quý vị không thể có được thanh kiếm của mình trừ khi quý vị học chơi trống hoặc kèn fife hoặc thổi sáo. Quý vị nên có một hình thức nghệ thuật để xóa đi các kỹ năng sát nhân.”
Bước thứ năm là phục hồi, bao gồm sự tha thứ và chuộc tội, đồng thời liên quan đến cả cộng đồng và bản thân người chiến binh. Ông nói, cộng đồng phải chia sẻ gánh nặng trách nhiệm.
Ông nói, “Quý vị đã hành động nhân danh tôi, tôi đã thanh toán các hóa đơn, tôi đã cử quý vị đi. Quý vị đã không làm điều này một mình. Và đó không phải là quyết định của quý vị; quý vị đã làm điều đó đại diện cho tôi và đất nước của chúng ta, và quý vị đã nghĩ rằng quý vị đang bảo vệ tôi. Vì vậy, tôi nhận trách nhiệm cho quý vị. Và cho bất cứ điều gì mà quý vị đã làm, và tôi sẽ gánh trách nhiệm đó cùng quý vị, và tôi sẽ giúp quý vị trở về nhà.”
“Và các chiến binh cần chịu trách nhiệm cho những gì mà họ đã làm, và thực hành một số hình thức chuộc tội. Sự chuộc tội là một bước được thực hiện bằng hành động để hàn gắn lại thế giới từ thời điểm mà chúng ta đã làm hại nó.”
Bước thứ sáu và cũng là cuối cùng, là nhận thụ phong với tư cách là một chiến binh, thường là thông qua một buổi lễ.
Ông Tick nói, “Các nền văn hóa truyền thống không gọi ai đó là một chiến binh cho đến khi họ có thể mang theo trải nghiệm này mà không bị suy sụp. Bởi vì các chiến binh phải trở thành các bậc huynh trưởng trong cộng đồng và các nhà lãnh đạo cũng như những người thầy sau khi phục vụ. Vì vậy, tôi không giúp các cựu binh của mình trở thành thường dân.”
“Một lần nữa, tôi nói với họ, ‘Quý vị không thể, quý vị sẽ không trở thành thường dân. Quý vị có thể sống chung với dân thường, quý vị có thể phục vụ trong xã hội dân sự, với tư cách là một giáo viên hay một huynh trưởng, nhưng quý vị luôn luôn là một chiến binh.’”
Các nguồn lực dành cho cựu chiến binh: