Tài liệu để đính chính những bài văn cổ (số 23)
XCIV Bần nữ ngâm (1)
Tối thị phong-lưu cao cách điệu,
Khả liêm thời-thế kiêm cung trang.
Giận với đời cũng phận phấn hương,
Sao lại tách phú bần làm đôi mảnh.
Con tạo ghét chi người bạc mệnh !
Ai ôi thường là cái hồng nhan !
Nào những đâu tưởng phấn mê lan,
Ngồi mà gẫm bao nhiêu phong nguyệt.
Hỏi rằng: Chị biết chăng, chẳng biết ?
Rằng: Năm canh thức suốt cả năm canh.
Đầy vơi say tỉnh chén tình,
Trông hoa thuấn đã hiu hiu muốn rã.
Thôi xuân-tỏa đóng chi cho chặt nữa,
Mở toang ra đề đợi mái giăng giá.
Thương ôi! cũng phận đàn bà
(Theo quyển quốc-văn tạp biên, tờ 27a)
XCV Chùa Thanh mai (2)
(của Trịnh Căn, 1682-1709)
Bài dẫn (bằng Hán-văn dịch ra quốc-văn). Tôi nối theo nghiệp trước, cả vỗ cảnh thái bình, lòng thể đạo giời, chính theo phép vua, hát chín bài mà nuôi mọi vật, góp năm phúc để cho muôn dân. Rõ cái công to yên giời đất nuôi muôn vật, họp cái phúc nhớn của thần và người: trăm sông êm sóng, bốn bể lặng trong. Chợt nhận thấy điềm tốt lành, có chùa tên là Thanh-mai, cảnh tùng lâm cao lạ nơi sâu thẳm khác trần. Bèn sai hỏi tìm thấy được ở trong tầng núi Phượng-nhỡn, y nhiên một bầu viên tĩnh bao quát rất nhiều vẻ lạ, giăng soi gác nguyệt, đầy một vùng như thếp bạc, mây giáp cửa số mây, sắc bốn mùa như hoa gấm, hai suối chảy như nước ngọc Tào-khê dẫy núi đứng như ngọc quỳnh thông-lĩnh, tốt đẹp lạ lùng, rất khó vẽ tả: Đến như móc xuống mà hoa xuân đẹp, khi núi tạnh mà chim núi kêu, mở cửa tuệ, soi đàn vàng cúi trông nước biếc, soi ánh mặt giời, tươi tốt đáng yêu ! Gió lại mà tiếng thông reo, mưa tạnh mà đêm cỏ mát, quanh đường xếp đá, điểm ánh hồng hà, sáng nhà giao-trì, tỏ như bích-hàn, tốt đẹp đáng chuộng. Thêm cành đan quế bay thơm, cây xanh bốc khói, quả thơm liền như ngọc li-châu, hoa tốt rủ như hình mã não, um tùm rậm rạp, thực là cảnh mĩ-quan của Lan nhã (cảnh nhà chùa). Ta xét bản đồ xem phong cảnh, mà tín nhẽ cảm cách, không ngờ sinh ra lòng cung kính, vẽ hành hai bài thơ tú cổn, để cho rực rỡ thêm lên.
1- Bưng mặt xa trông sực cửu thiên,
Rông thu thú-vị khéo viên tuyền.
Đỉnh đang chầy nên trên sân các,
Ngao-ngàn hương lừng trước ngọc-hiên.
Kẻ lọt tam đồ vầy cõi phúc,
Người thì thập giới giốc lòng thiền.
Từ-bi nhường ấy uy linh ấy,
Một tác niềm đan rất kính tin
2 – Gây dựng nhờ nơi thái-nhất quyền,
Đích nên tĩnh cảnh khắp ba nghìn,
Cung châu xét tỏ công vô lượng,
Cửa đức xum nhau khách độ duyên,
Gió phất thông reo ngờ nhạc vỗ,
Suối vàng nước chảy ngỡ chuông rền.
Nghiêm xem cảm ứng nhơn nhơn bấy.
Bút ngợi thơ đề biết mấy thiên.
(Trích ở quyển Ngự đề Thiên-hòa doanh bách vịnh sách viết bằng chữ nôm của trường Bác cổ, số OB 544 tờ 16a-18a).
(còn nữa)
Ứng hòe – NGUYỄN VĂN TỐ
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
1) Văn-đàn bảo giám, quyển thứ hai, in lần thứ hai, trang 31, đề là bạc mệnh nhời chung, có nhiều chỗ khác với bản riêng của chúng tôi, như những câu sau này: Tối áị phong lưu cao-các điệu, Sao nỡ rạch phú bần làm đôi mảnh, Con tạo đúc chi người bạc mệnh v.v…..