Tài liệu để đính chính những bài văn cổ (số 26)
Thập nhị quỳnh ca (1)
1 Tháng giêng
Trong cơ giao-thái khéo tương-nhân,
Đầu binh kia-kìa đã chỉ (dần).
Thế-giới một bầu vầy thụy-khí,
Giang-sơn tám bức đượm dương xuân.
Dâng tâu tiếng nhạc răn đòi chập (2)
Nhuần tưới mùi thơm khắp chín lần (3)
Cõi thọ thênh-thênh càng khỏe bước,
Muốn nghìn toàn đội đức hồng-quân.
2 Tháng hai
Thục-khí hậy-hây chỉn lạ nhường,
Trung-hòa đàm ấm nức thiên-hương.
Thị-thành mừng thấy thời trinh-chính,
Hải-vũ đua chơi áng lệ-quang.
Ba lễ chí thành lòng khúm-núm (4).
Trăm quan hội thưởng tặc lừng vang.
Phát vinh đức ấy vang vang rộng (5)
Nhuần gọi lâng lâng khắp tám phương (6)
3 Tháng ba
Chợt thấy nguyên-vân ánh phượng đình (7)
Này này hẳn đã tới thanh-minh.
Cảnh-tình dải tỏ điềm long-thịnh.
Gia-khánh vui vầy thuở thái bình.
Gã hỏng đan vu say thánh đạo (8).
Khách dòng bến nguyệt nối ca-thanh.
Nghìn vàng phỏng độ khôn phen xứng (9)
Vật tốt giời hòa uốn hữu tình.
4 Tháng tư
Mảng vui bàn bạc quyến xuân-phong,
Rờ-rỡ tần sang lenh chúc dong (10)
Liễu phát tơ xanh mềm thướt thướt (11)
Hòe giương tán lụcc sắp trùng trùng.
Người kề song bắc hiu-hiu mát,
Kẻ dốc lòng thiền lẻo-lẻo trong,
Này mới chính đang thời tá hảo.
Công tư-dục ấy thảy vô-cùng (12).
5 Tháng năm
Tam quang choi-chói sắc chiêu minh,
Nấy-nấy đoan dương giữa tiết lành (18).
Rành-rạnh tiền sen doành bích-thủy,
Rõ ràng gấm lựu chốn kim thành.
Gió nhân vỗ khắp nhuần muôn họ,
Cầm Thuấn vang đưa phỉ mọi tình (14).
Thảy thảy dưới trên mừng náo nức,
Thơ dâng ca tụng đổng đan-đình (15).
6 Tháng sáu
Bách chung thăm-lắm lọ tìm thăm (16)
Đặt kể lần lần đã nửa năm (17).
Phép sửa y quan hằng khắn-khắn,
Lễ dùng giao miêu vốn chăm-chăm.
Thủy-bàn sực nức mùi thanh lạ,
Liên tửu tưng bừng chen chúc-châm
Khen chước tố thư sao nghiệm bấy (18),
Công nên phỉ sửa chí xưa lăm (19)
7 Tháng bảy
Ngô-giang xảy thấy là ngô bay,
Ngắm thấy tin thu đích nhiệm thay!
Kiền kiện hòa đoàn giong giá phượng (20)
Hiu-hiu mấy phát nổi hơi may.
Nghêu-ngao nọ vũ bơi chèo quế,
Đủng đỉnh kìa ai rối tiếng chày (21).
Ước gặp Nữ Ngưu hòng thử hỏi,
Cầu-ô sự ấy có chăng vầy ?
8 Tháng tám
Về thọ tinh xem ánh thức lồng
Đành hay Nam-lã chính thu trung (22).
Giời muôn trượng thẳm lầu-lầu sạch,
Nguyệt một vầng in vặc-vặc trong
Quyến khách thơ ngâm lòng phới-phới,
Ghẹo người chuông nên tiếng boong boong
Lâu đài bỡ ngỡ nghìn từng gầm,
Khôn nghĩ vời, so gấp mấy trùng (23).
9 Tháng chín
Nghiệm chung tinh vật biết thời giời,
Tam lệnh này ký trí nhạn lại.
Móc tưới kim anh màu rõi tốt,
Mưa reo thúy trúc sắc khoe tươi (24).
Giả mành ngăn gió trần nào bợn (25).
Rảo chèn gian tay bạn họp chơi,
Ngẫm nghĩ mỗi triều là mỗi vẹn,
Nhàn chi đề phẩm tót xa vời.
10 Tháng mười
Xem trên kiền-tạo khéo quanh vần (26),
Đã đến huyền-anh tức tiểu xuân,
Quynh thụ nghìn hàng hoa tuyết đượm (27).
Dao-trì mấy chốn thụy tương nhuần,
Hạ Tô nên tỏ lòng trong khoản,
Gã Lý thêm lừng tiếng nghĩa nhân,
Xảy nhớ Tống-hoàng khi quyết sách (28)
Đêm khuya hội-họp với lương thần.
11 Tháng mười một
Hoàng luật tự nhiên suốt vận hành (29)
Giời đông vừa gỡ nhất dương sinh (30).
Tơ thêm độ khắc khoe tài lạ,
Mây vén trình điềm ứng trị lành.
Khử đẹp quần âm quang thảy thảy,
Sáng gia thất điệu tỏ rành rành (81)
Hãy nên ngoạn vị trong thời tự (32)
Nghiệm biết thiền-cơ đã đành (33).
12 Tháng chạp
Trải xem lịch-kỷ vốn tinh-tường,
Nhẫn-nhẫn xoay về thuở nhị-dương (34),
Mai chiếm phau-phau cành dọi bạc (85)
Thông khoe đột-đột chí lăng sương
Muôn phương cống-khoản tuôn kỳ-vật,
Một áng thanh-điềm đượm noãn-hương (36).
Suy biết bốn mùa tin pháp-lệnh.
Quyền-cương thể dấy hợp thiên-cương (37)
(Trích ở quyển Ngự-đề Thiên-hòa-doanh bách vịnh của Trịnh-Căn, 1682-1709, sách viết bằng chữ nôm của Trường Bác-cổ, số AB 544, tờ 21a 25 a).
(Còn nữa)
Ứng Hòe- NGUYỄN VĂN TỐ
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
1 Bài Thập-nhị quỳnh ca thấy chép cả trong Hồng-đức quốc-âm thi-tập, sách viết bằng chữ nôm của Trường Bác-cổ số AB 292, tờ 11a-14a. Nam-phong tạp-chí đã tạo ra quốc-ngữ trong số 33, tháng Mars 1920, trang 254-255, nhưng không nói sao theo bản nào. Nhưng bản mà chúng tôi được xem đều là những bản mới, vậy về phần ngoại-dung, có thể nói rằng bài Thập-nhị quỳnh ca là bài của Trịnh-Căn, vì quyển thiên-hòa-doanh bách vịnh của Trường Bác-cỏ có vẻ cũ lắm: giấy thì vàng, chữ thì cổ, viết theo lối đời Lê-mạt. Còn về đường nội-dung, phải đợi khi nào sưu-tập được nhiều thơ nhà Lê, mới có thể phán đoán được. Náy chỉ chua qua những câu khác nhau như sau này
2) Dâng tâu tiếng nhạc ran đài lớp.
3) Sái khắp mùi thơm biết mấy lần.
4) Ba lễ chỉ thanh lòng cẩn niêm.
5) Nghiêm-minh đưa ấy vênh-vênh rộng.
6) Nhuần gội lưng lưng khắp bốn phương.
7) Chợt thấy tam-vân ánh phượng-đình
8) Gã hóng hàng văn tay Thánh-đạo,
9) Nghìn vàng phỏng độ khôn pha xứng.
10) Lã lã lần sang lệnh chúc-dong.
11) Liễu phát tơ xanh mềm lướt-lướt.
12) Công tư-dục ấy kể vố-cùng.
13) Lay lảy Đoan đương giữ tiết tành.
14) Cầm thuấn vang rơi phỉ mọi tình.
15) Thơ đâng ca tụng chốn đan đình.
16) Bách-chung thám-lãm lộ tầm-thâm.
17) Khuất-kế dành-dành đã nửa năm.
18) Khen sửa tổ-thanh sao nghiêm mấy
19) Công nên phỉ tại chí xưa lăm.
20) Răm-rắp hòa đoàn giong đuốc phuợng.
21) Thủng thỉnh kìa ai gọi tiếng chầy ?
22) Rành thay Nam lữ chinh thu trung.
23) Khôn nghĩ vơ-lơ kịp mấy trùng.
24) Mưa giao thụy-trúc đã khoe tươi.
25) Phao buồm ngăn gió trần nào vã.
26) Lạ thay kiền-tạo khéo quanh vần.
27) Quỳnh lựu nghìn hàng hoa tuyết đượm.
28) Sẽ nhớ Tống-hoàng khi quyết sách.
29) Hoàng luật tự nhiên thoát vận hành.
30) Trời đông gặp gỡ nhất dương sinh.
31) Sáng phau thất diệu tỏ rành rành.
32) Hãy tu ngoan vị trong thời tự.
33) Nghiệm biết thiên cơ công đã dành.
34) Nhân nhẫn xây nên thuả nhị-dương.
35) Mai chiếm phau-phau mầu điểm ngọc,
36 Một áng thanh-điền đượm dị-hương.