Thân thế và sự nghiệp của Hai bà trưng
Ai đến cung-chiêm đền Hai-Bà làng Đồng-nhân trong thành-phố Hà-nội còn thấy một bài thơ nôm, ngũ ngôn, bát cú, (1) nhắc lại công-nghiệp lẫy-lừng của hai vị nữ anh hùng mà trong khoảng nội-thuộc Đông-Hán (Ất-dậu đến Kỷ-sửu, 25 đến 209 sau tâm lịch) đã quật khởi trống với quần Tàu, đem lại cái nền chính-thống mà buổi ấy bọn nam-nhi đành chỉ bó tay:
Ngựa Gióng đã lên không (2)
Rừng Thanh voi chửa lồng (3);
Nảy chồi hoa nụ Lạc (4),
Mở mặt nước non Hồng (5).
Giăng tỏ gương hồ Bạc (6),
Mây tan dấu cột Đồng (7)
Nén hương lòng cố-quốc,
Xin khấn một nhời chung…
Nhìn lại hồi Bắc-thuộc, ta sẽ nhận thấy các quan Thứ -sử, Thái-thú sang cai-trị, ngoài mấy ông Nhâm-Diên, Tích-Quang, (8), phần nhiều chỉ hằng năm vơ-vét tiền-của đem về Tàu mà không chịu thực lòng khai hóa cho dân.
Dưới triều vua Quang-vũ nhà Hán (25 57), Tô-Định sang làm Thứ-sử Giao-châu đã dùng một chính-sách rất tàn-ác; bọn tù-trưởng và dân-sự đều ta-oán. Muốn giữ cho nên, Tô-Định đã bắt và giết những người có dân vọng.
Năm Kỷ-hợi (39) ông Đặng-thi-Sách làm quan lệnh huyện Châu-diên muốn cứu cho nhân-dân qua vòng nước sôi, lửa nóng, có đưa thơ khuyên Tô-Định sửa đổi lại chính-trị. Tô-Định không những không nghe, lại còn cho bắt, giết Đặng thi-Sách là khác.
Vợ ông Thi-Sách là bà Trưng Trắc (9) giận Tô-Định giết chồng mới cùng em là Trưng-Nhị nổi lên. Ban đầu kén trong năm họ làng ấp được 27 người nữ dũng, sau thanh-thế dần to, bà Trưng tuyển thêm những tay thiện-xạ trong vùng mán mọi ; được 8 vạn binh, hai bà đóng đồn ở Châu-diên. Ngày mồng 6 tháng giêng bắt đầu khởi sự, qua ngày mồng 7, hai bà thao-diễn quân-sựu ở Trường-sa bên sông Bạch-hạc (Vĩnh-yên), rồi tiến quân đá thảnh Liên-châu là nơi phủ Đô- hộ đóng.
Tô-Định cùng các bộ-thuộc bị đánh bất ngờ, phải bỏ thành chạy sang Hải-nam rồi trốn về Tàu. Trong khi dân Giao-chỉ đáp theo tiếng gọi của chị em bà Trưng, thời các quận Cửu-chân, Nhật-nam, Hợp-phố, cũng nổi lên đánh đuổi quân thái-thú. Lấy được 65 thành đắt Lĩnh-nam, bà Trưng mới xưng vương, đặt tên nước là Triệu, đóng đô ở Mê-linh (Phong châu), lập cung điện ở làng Cổ-lai (10) và từ đầu không chịu nội-thuộc Đông Hán (Canh-tý, 40 sau tây-lịch).
Vua Quang-vũ thấy thế lực của Trưng-vương mỗi ngày một lớn, sợ gây thành một mối lo ở phương nam, nên năm Nhâm-dần (42) sai Phục-ba tướng-quân là Mã-Viện đem binh sang đánh
Mã-Viện là một danh-tướng nhà Hán, lúc ấy đã gần 70 tuổi. Vì thể, trong bài thơ Tiếu Phạc-Ba ở Long-châu, cụ Mai-sơn có câu sau đây, đầy giọng mai-mỉa :
Quắc-thước khoe chi mình tóc bạc,
Cân-thoa đọ với gái quần hồng !
Mã-Viện họp một đạo quân 20 000 người ở gần Bắc-hải (Pakhoi), định dùng 2.000 chiếc thuyền, vượt bè sang đánh nước ta, nhưng trong khi sửa-soạn đem quân đi, thì viên thủy-sư là Toun Tchê (7) bị bệnh mất (11); Mã đành phải kéo quân men theo bờ bể mà tiến. Vì cách dùng binh rất khôn khéo, binh đi đến đâu, các bộ-lạc đền ra hàng hết. Binh nhà Hán mới thẳng đường kéo xuống trung-châu, rồi do triền sông Thái-bình và sông Thương kéo lên đành kinh-đô Mê-linh.
Hai Bà đem binh trống giữ, giao chiến ở địa-phận Sơn-tây, Hà-nội. Lần này quân Tầu bị thua, phải lui về đóng ở giáp hồ Lãng-bạc.
Nhưng đến đầu năm Quý-mão (43), vua Quang-vữ giúp cho Mã Viện thêm 50 000 viện-binh. Quân này ngầm vào Nam – bộ nước ta, hợp với binh Mã-Viện. Quân Trưng tương tiến đánh, vì quân ít, bị thua to, chết hại nhiều, phần thì tan vỡ, còn phần thì theo hai bà về giữ kinh-đô Mê-linh,
Lúc ấy, hết mùa đông, sang mùa hè, Mã-viện sợ lam-chướng, giao binh không lợi, mới đóng quân lại để dưỡng sức.
Mùa thu năm Quý-mão (43) Mã-viện sai phó tướng là Lưu-Long đem binh vây đánh Mê-linh. Nhưng vì kinh-đô ấy, núi non hiểm trở, hai bà cố-thủ ròng-rã mấy tháng giời, quân nhà Hán thật đã vất-vả vì quân Nam dùng lối du-kích. Về sau, quận Hán phải dụ quân Nam đến Cấm-khê (Sơn-tây), gần sông Đáy, mới phả tan được.
Chị em Trưng-vương thất thế, phải gieo mình xuống cửa sông Hát-giang mà tự tận.
Cấm-khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế, phải liều với sông (12)
Tương-truyền hai Bà hóa thành tượng đá trôi vào địa-phần xã Đồng-nhân gần Hà-nội. Dân xã Đồng-nhân bèn lập đền thờ ở xứ Vườn-tịch trên bãi sông vào năm Đại-định thứ ba (1142) đời Lý-Anh-tôn (13). Về sau, nước sông Nhị-hà lên to, đê vỡ , đền đổ. Qua năm Tự-đức nguyên-niên (1848), phải dời đền vào thôn Hương-viên cũng thuộc làng Đồng-nhân tức là đền Hai-Bà bây giờ.
Về cái chết của chị em Trung-vương, các sử-gia Nam Bắc đã có nhiều thuyết khác nhau:
Theo người Tàu, Mã-Viện, truyện chép: Mã-Viện đánh thắng quân Nam, hai Bà họ Trưng tử trận, (bị chém đầu đem về Lạc-dương. An-nam chí-lược của Lê-tắc cũng theo thuyết này).
Nam-sử chép: Hai Bà tự-trầm xuống Hát-giang, thuộc huyện Phúc-thọ, tỉnh Sơn-tây vào ngày mồng 8 tháng ba năm Quý-mão, năm 43 sau Tây-lịch (14). Bà Trưng-Trắc thọ chừng 29 tuổi (?) Và theo các bản Thần tích: Chỉ có một mình bà Trưng-Nhị tử trận, còn bà Trưng-Trắc thì lên núi My-son (?) mà lên giời. Một thuyết nữa hai Ngài thình lình biến hóa (15).
Đứng trước những thuyết ấy và các sự dị-đoan, nhà sưu tầm sử liệu thực đã phân-cân không biết quyết định ra sao, đành chỉ đề sự ấy cho nghìn đời sau phê-phán (16).
Dù sao, sự-nghiệp oanh-liệt, khí tiết trung-trinh của hai Bà họ Trưng vẫn in sâu trong trí nhớ của dân đất Việt này.
Du-khách ngày nay mỗi khi qua Sơn-tây, theo con đê sông Hát, hỏi thăm chiêm-bái nữ anh-hùng, sẽ thấy một tòa cổ miếu (17) ẩn hiện dưới bóng cây xanh, chim hôm lác-đác bay về, giun dế tỉ-tê trong bụi, bia hoang, cây cối, nước biếc, trời xa, cảnh vật tiêu sơ sẽ phảng-phất như còn thấy buổi bình tàn, lực tận của nữ anh-hùng mà cái hận nghìn thu vẫn sớm chiều vơi đầy với nước Hát-giang, bảng-lảng với mây Tản-lĩnh.
Nhưng nếu trên đường về, qua sườn để đất dốc, trèo lên bực đá gồ ghề thấy sừng-sững hai cột trụ ở cổng vào, trơ trơ đứng vững cùng thời gian với câu đối:
Đồng trụ chiết hoàn, Giao-lĩnh trì,
Cấm-khê doanh bạc, Hát-giang trường
Dich nôm
Nước Cấm đầy vơi, giòng Hát sạch.
Cột Đồng lừng lẫy, núi Nam cao.
Thời cảm thấy khí thiêng bàng-bạc còn mãi với non sông Hồng-Lạc mà hai Bà đã hi-sinh để mở đường độc-lập cho Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, sau này…
TIÊN ĐÀM
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
Dẫn-giải và chú-thích:
1) Bài thơ này được giải thưởng thứ nhất về kỳ thi văn thơ do một nhà báo Hanoi tổ-chức, hiện có khắc cúng tại đền Hai Bà. Tác-giả là Cụ Cúc Hương Hoàng-thúc-Hội, người làng Hạ-yên-quyết, phủ Hoài-đức, tỉnh Hà-đông đỗ cử-nhân khoa Bính-ngọ (Thành-Thái thứ 18) giữ tiết-thảo không ra làm quan, ở nhà giậy học.
2) Ngựa Gióng: ý nói đức thánh gióng (Phù Đổng Thiên Vương) về đời Hùng-vương thứ 6, sau khi đánh tan giặc Ân ở quận Vũ-ninh (Bắc-ninh) lên núi Sóc-sơn, cởi bỏ áo giáp, rồi cưỡi ngựa bay lên giời.
3) Voi chửa lồng: ý nói sau hai Bà Trưng mới đến bà Triệu-Ẩu nổi lên đánh quân Tàu.
Bà Triệu-Ẩu người làng Phú-điền huyện Nông-cống tỉnh Thanh-hóa, vì giận quân Tàu tàn-bạo, cùng anh là Triệu-quốc-Đạt nổi lên đánh đuổi quan Thái-thú. Bà thường cưỡi voi ra trận, quân Tàu rất sợ vẫn tôn là Lê-hải-Bà-vuơng.
4) Hai chị em bà Trưng là con quan Lạc-tướng, dòng-dõi Hùng-Vương
5) Nước non Hồng: là giang sơn Hồng Lạc, chỉ nước ta.
6) Hồ Bạc : Hồ Lãng-Bạc ở gần Hanoi, hồ này khi trước gọi là Dâm Đàm-Hồ, đồn đời Lê gọi là Tây Hồ, Đoài Hồ, và bây giờ gọi là Hồ Tây hay Tây Hồ, nơi hai Bà Trưng giao chiến với quân Tàu.
7) Cột Đồng: Sử chép : Sau khi đánh thắng hai Bà Trưng. Mã-Viên giồng một cái đồng trụ có khắc chữ:
Đồng trụ chiết, Giao-chỉ diệt (nếu cột đồng trụ này đổ thì hết giống Giao-chỉ) đến nay không ai biết dấu tích đồng trụ ở đâu, một thuyết thì cho là ở chân Hợp-phố tỉnh Quảng-Đông (sử gia Launay).
Theo Minh-Thanh nhất thống chí, thì ở địa-phận Lưỡng-Quảng.
Đến đời nhà Đường có quan đô hộ là Mã-Kỳ, cháu đời của Mã-Viện, ban cai-trị lại đựng một cái cột Đồng nữa để kỷ công tổ tiên và có khắc ! “Đồng trụ chiết, Nam quốc diệt” (cột đồng-trụ này đổ, nước Nam sẽ mất). Tục truyền rằng : Người Nam thấy thể ghét ném đắt gạch và mảnh sành vào nên lâu dân đồng trụ của Mã-Kỳ cũng không còn díu tích. Về sau trong các công việc hàng giao nước ta với nước Tàu thường có câu chuyện cho sự sang tìm dấu-tích cột đồng-trụ.
8) Là hai quan Tầu có công đức với dân: Nhâm-Diên giạy việc cày cấy, Tích-Quang giậy việc lễ nghĩa, cưới xin, và Sĩ-Nhiếp đem nho giáo sang gây cho dân một nền văn-hóa như Trung-quốc.
9) Bà Trưng-Trắc và em là Trưng-Nhị người xã Cổ-lai, huyện Châu-diên, quận Phong-châu (nay thuộc mấy tỉnh Phú-thọ, Vĩnh-yên, Phúc-yên), cha là quan Lạc-tướng, mẹ húy là Trần-thị-Đoan.
Năm 19 tuổi, bà Trưng-Trắc kết duyên với quan lệnh huyện Châu-diên tên là Đặng-thi-Sách. (Xem Trưng Vương lịch-sử của cụ Cúc Hương Hoàng-thúc-Hội, nhà in Đuốc-Tuệ, năm 1937).
10) Quê-hương hại Bà.
11) Theo Essai d’Histoire d’Annam của Ch. Patris, nhà in Đức-lập, 1922, trang 116.
12) Trích ở Đại-nam quốc sử diễn ca. Sách này của ông Lê-ngô-Cát, làm Án-sát Cao-bằng, người làng Hương-lang, huyện Chương đức, tỉnh Hà-nội (Bây giờ là xã Hương-lang, tổng Lương-Xá, huyện Chương-mỹ tỉnh Hà-đông) soạn, Ông Bình-chuẩn-sứ Đặng-huy-Trứ khắc và in.
Trường Viễn-đông bác ngữ (Ecole des langues orientales) ở Paris sổ sách XIX66 có một bản dịch Trương-vĩnh-Ký dịch ra quốc-ngữ lần thứ nhất, là bản in nhà nước ở Saigon, năm 1875 tức là năm Tự-đức thứ 27 (khảo ở Viễn-đông bác-cổ học viện).
13) Theo Thần tích xã Hạ-lôi và bia khắc ở đền Hai Bà cùng Trưng vương lịch-sử của cụ Cúc-Hương.
14) Theo Trưng-vương lịch-sử, thì hai bà tự trầm ở sông Hát-giang vào ngày mồng 8 tháng ba năm Nhâm-dần (42), nhưng xét lại trong các sách sử-ký đã chép: Bà Trưng khởi sự từ năm Kỷ-hợi (39) đến năm Canh-tý (40) xưng Trưng vương, đến năm Quý-mão (43) thì mất.
Sử-gia Ch.Patris cho là từ năm Canh-tý (40) đến năm Giáp-thìn (44). Chúng tôi đã theo thuyết trên nghĩa là từ Kỷ-hợi (39) đến Quý-mão (43).
Hoàng Việt âm-dương đối-lịch của Ông Cordler và Lê-đức-Hoạt soạn, nhà in Châu-phương, trang 5 cũng chép: Trưng-Vương và em gái là Trung-Nhị làm vua từ năm Canh tý (40) đến Quý-mão (43).
15) Thuyết huyền-bí này chép ở Thần tích xã Hạ-lai.
16) Bài khảo này chúng tôi đã căn-cứ vào các sử-liệu hiện có như các sách của sử-gia Maspero, Patr , Launay, các tài-liệu ở trường Viễn-đông bác-cổ, bị-kứ ở miếu Hát-giang, bia đền Hai Bà do cụ Đốc-học Dương-duy Thanh soạn năm Tự-đức nguyên niên (1988), Thần-tích xi Đồng-nhân, Trưng-vương lịch-sử của cụ Hoàng Cúc Hương, các sách Tàu như Sử-ký Tư-mã Thiên, Mã-Viện truyện, An nam chí lược v. v. cùng các điều đó được nghe thấy trong khi đi thăm đền, miếu thờ hai Bà Trưng. Nhưng nếu còn có chỗ nào sơ-sót, móng đọc-giả bổ cứu thêm và đính-chính cho thì thật là một sự may cho sử-học.
17) Miếu thờ hai bà Trưng hay là miếu Hát ở làng Hát-môn, huyện Phúc-thọ, tỉnh Sơn-tây, miếu làm trong đó, trông ra sông Hát-giang. Tác-giả đã đến tận nơi cung chiêm miếu này, nhằm ngày 21-12-1940.