Tiền quân Nguyễn Văn Thành (1757-1817) II
Tiếp theo của phần 1
Năm Đinh-tị (1797) Nguyễn-vương để Tôn-thất hội ở lại giữ thành Gia-định, rồi cùng Đông-cung Cảnh đem binh thuyền ra đánh Qui-nhơn và sai Nguyễn Văn-Thành cùng Võ-Tánh ra đánh Phú-Yên.
Khi vua đi đánh Quảng-nam trở về Gia-định thì sai Tiền-quân Thành ở lại giữ Diên-khánh. Bấy giờ có nhiều giặc khách “Tàu-ô” cướp bóc ngoài bể, Thành dùng mẹo bắt được hết, nên từ đấy đường đi bể mới được yên.
Tháng 3 năm Kỷ-mùi (1799), vua lại cử đại-binh ra đánh Qui-nhơn. Tháng tư , thuỷ quân nhà Nguyễn vào của Thi-nại, ngài sai quan Hậu-quân Võ-Tánh, Hữu-quan Nguyễn-Hoàng Đức đem quân lên bộ đóng ở Trúc-khê. Ngay lúc bấy giờ tiền quân Nguyễn Văn-Thành đem bộ-binh ra lấy Phú-yên rồi tiến quân lên tiếp ứng cho toán quân Võ-tánh.
Tháng 5 quân Nguyễn-triều vây thành Qui-nhơn, Tây sơn ở Phú-xuân cho Trần Quang-Diệu và Võ Văn-Dũng đem quân cứu-viện vào tới Quảng-nghĩa, gặp đại-binh tiền-quân Nguyễn văn-Thành giữ ở Thạch-tân, nên Diệu và Dũng không sao đi cứu Qui-nhơn được nữa.
Đến năm Canh-thân (1800), thành Bình-định lại bị vây khốn. Thành phụng-mạng cùng bọn Trương Tiến-Bảo, Lê-Chất, Nguyễn Đình-Đắc chia quân làm ba đạo ra đánh lấy đồn Hội-an ở Phú-yên rồi kéo ra đóng ở Thị-dã (thuộc Bình-định). Quân Tây-sơn lại phải lui về giữ Chử-sơn.
Nguyễn Văn-Thành đánh mãi không vỡ, sau dò được con đường về Tây-nam có để đánh úp tập-hậu được, bèn vẽ địa-đồ hình-thế, dâng biểu xin thêm quân.
Vua Nguyễn liền sai Tống Viết-Phúc và Lê Văn-Duyệt đem thêm quân tiến đóng ở Thị-dã để theo tiết-chế Nguyễn Văn-Thành.
Thành bèn lưu Duyệt đóng quân án-ngữ ở Thị-dã, còn mình thì đem đại binh qua núi Bột-khê, mấy trăm dặm đường, dù mưa gió cũng vẫn đi vòng qua Đăng-trại đến sau lưng đồn quân địch, phóng-hỏa đốt trại, mặt trước thì Lê Văn-Duyệt thừa thắng đánh ập vào. Quân địch thua to, tan chạy.
Trong trận này, hai đại-tướng triều Nguyễn là Thành và Duyệt , cầm cờ cưỡi voi chỉ-huy chư tướng . Thành vốn có tính hay rượu, lúc sắp vào trận cầm hồ rót rượu uống , lại rót riêng một chén đưa cho Duyệt mà bảo rằng : “Uống chơi chén này cho hăng háo thêm lên!…”
Duyệt cười mà đáp : “Làm tướng có nhút-nhát thời mới phải mượn đến hơi rượu, chứ như dưới con mắt tôi thì không cho quân giặc vào đâu cả, hà tất phải mượn đến rượu?…”. Thành có ý thẹn và vì thế mà căm giận Duyệt.
Bấy giờ Nguyễn-Vương sắp muốn khởi trận hỏa-công ở cửa Thi-nại, bèn mật báo cho Thành biết để đêm đem bộ-binh đến đánh trận giặc để quân địch mải lo chống giữ đường bộ thì mặt thuỷ binh-thuyền đánh xông vào, tướng Tây-sơn là Võ văn-Dũng phải bỏ thuỷ-đồn chạy.
Năm Canh-thân (1800), trong khi thành Qui-nhơn bị vây, vua đem hết thuỷ-quân ra đánh Phú-xuân, lưu Tiền quân Nguyễn văn-Thành đóng quân ở lại Vân-sơn để chống nhau với quân địch, lại sai đem ấn sắc đến tận nơi quân-thứ phong Thành tước Quận-công.
Tháng 3 năm Nhâm-tuất (1802), Nguyễn văn-Thành cùng Lê văn-Duyệt hội quân hai mặt đến đánh thành Bình-định. Sau khi biết tin quân Tây-sơn đã thất bại ở Trấn-ninh, hai tướng Trần quang-Diệu và Võ văn-Dũng hết cả lương thực, đương đêm phải bỏ thành, lẻn đem binh, tượng qua đường rừng núi trốn sang đất Ai-lao, rồi chạy ra Nghệ-An để hội diện với vua Tây-sơn (1) lo cách chống giữ.
Tháng 7 năm Nhâm-tuất (1802), đức Gia-long khắc phục được Bắc-hà. Đến tháng 9 hồi-loan về Huế. Ngài đổi tên Bắc-hà làm Bắc-thành, đặt chức Tổng-trấn, rồi cho vời Tiền-quân Nguyễn văn-Thành ở Qui-nhơn ra sung chức ấy. Lại đặt ra “tam tào” là Tào hô, tào binh và tào hình, sai Nguyễn văn-Khiêm, Đặng Trần- Thường và Phạm văn-Đăng ra coi các Tào ấy để giúp Tiền-quân Thành.
năm Gia-long thứ 7 , bốn trấn Bắc-thành nổi giặc giả, danh tôn Lê. Thành bèn làm khúc hát “Điểm-mê” để hiểu-dụ. Dân gian thời bấy giờ cũng có người làm ra khúc “Tố-khuất” đổ tội cho quan-tham lại-nhũng, nên mới nổi giặc. Thành thông sức cho tất cả các quan địa-phương đi hiệu-dụ mọi nơi và sai các tướng tá đi tuần tiễu, rồi dẹp yên ca.
(còn nữa)
NGUYỄN-TRIỆU
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)