Tìm hiểu tình trạng thiếu nhân công và thất nghiệp của Hoa Kỳ
ANTONIO GRACEFFO
Các doanh nghiệp khắp Hoa Kỳ cho biết họ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nhân viên và các vị trí tuyển dụng vẫn còn trống. Trong khi đó, các công ty đang cắt giảm [nhân lực], và tỷ lệ thất nghiệp dự kiến sẽ tăng lên.
Năm 2021, có hơn 47 triệu người đi làm bỏ việc, nhiều hơn đáng kể so với con số 42 triệu vào năm 2019. Trong đó, một số người nghỉ việc là do các quy định bắt buộc chích ngừa, nhưng còn có nhiều điều để nói hơn đối với câu chuyện thiếu nhân công này.
Năm 2019, tỷ lệ thất nghiệp là 3.6%. Năm 2020, tỷ lệ này tăng lên 6.7% và giảm xuống 3.9% năm 2021. Tính đến tháng 07/2022, tỷ lệ thất nghiệp đã giảm xuống còn 3.5%, thấp hơn một chút so với mức trước đại dịch COVID. Nhưng điều này không nhất thiết có nghĩa là tất cả những người đã có việc làm trong năm 2019 đều trở lại làm việc.
Tỷ lệ thất nghiệp được xác định bằng cách chia số người thất nghiệp cho toàn bộ lực lượng lao động. Để được xem là thất nghiệp, người làm việc phải trên 16 tuổi, phải sẵn sàng làm việc, và đã tích cực tìm việc trong tháng trước đó. Những người làm việc bị sa thải tạm thời thì không đủ tiêu chuẩn được xem là người thất nghiệp. Những người đã rời khỏi lực lượng lao động, những người không còn mong muốn làm việc nữa, cũng không được tính. Một giả thuyết cho rằng các số liệu thất nghiệp thấp vì mọi người không còn đi tìm việc làm nữa, và do đó, không còn được tính [vào số người thất nghiệp] nữa. Giả thuyết này cũng giải thích được vì sao các công ty gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nhân viên. Lời giải thích này là có cơ sở, nhưng bức tranh thực sự của thị trường việc làm còn phức tạp hơn thế nhiều.
Nhìn vào những thay đổi về quy mô của lực lượng làm việc cho cơ quan chính phủ Hoa Kỳ – những người đang kiếm việc mà ở trong quân đội – có thể làm sáng tỏ những gì đang xảy ra trên thị trường nhân công. Trong năm 2019, tổng số người làm việc là 163.54 triệu người. Năm 2020, con số này giảm xuống còn 160.74 triệu người do hàng triệu người rời bỏ thị trường việc làm. Vào năm 2021, con số này đã tăng lên 161.2 triệu người và đứng ở mức 163.96 triệu người vào tháng 07/2022. Trong khi con số này quay trở lại mức trước đại dịch COVID, thì xu hướng này lại là bất thường. Các con số đã được dự kiến tăng mỗi năm như đã diễn ra từ năm 1960 đến 2020 là do sự nhập cư và những thanh niên trong độ tuổi lao động.
Số liệu về thất nghiệp và nhân công thiếu hụt hơi mang tính phản trực giác. Trong những tuần đầu của đại dịch hồi năm 2020, khoảng 20 triệu việc làm đã bị mất, nhưng hầu hết trong số đó đã được phục hồi. Và tính đến thời điểm này trong năm nay, các nhà tuyển dụng đã tạo ra hơn 6 triệu việc làm. Trong tháng Năm, số lượng việc làm vượt quá số người tìm việc gần gấp 2 lần. Do đó, người ta có thể tin rằng có nhiều việc làm hơn số người lao động.
[Nhưng] cùng lúc, theo dữ liệu của Linkedin, việc tuyển dụng trên tất cả các ngành đã giảm 5.4% trong tháng qua. Đặc biệt là lĩnh vực công nghệ đã bị ảnh hưởng nặng nề với tỷ lệ tuyển dụng giảm 9.1%. Các công ty đã thông báo cắt giảm việc làm hoặc đóng băng tuyển dụng bao gồm Netflix, Tesla, và Coinbase, trong khi Vimeo đang sa thải 6% nhân viên của mình.
Một sự suy thoái kinh tế chung có thể là một dự báo hàng đầu về tỷ lệ thất nghiệp sắp tới. Các hãng truyền thông xã hội, truyền thông truyền thống, và các công ty công nghệ nằm trong số những công ty có sự sụt giảm doanh số nhiều nhất. Doanh thu quảng cáo giảm do các công ty chi tiêu ít hơn, khi dự đoán người tiêu dùng cũng sẽ hạn chế chi tiêu của họ. Chăm sóc cơ thể, chăm sóc sức khỏe, và làm đẹp đắt tiền là những lĩnh vực mà mọi người thường giảm chi tiêu trong nền kinh tế eo hẹp, nhưng ngay cả các nhà bán lẻ truyền thống như Walmart cũng đang cắt giảm triển vọng lợi nhuận của họ. Với việc doanh số bán hàng giảm, các công ty đang tìm cách tiết kiệm tiền bằng cách cắt giảm nhân viên.
7-Eleven đã sa thải 900 công nhân của công ty ở Texas và Ohio. Ford đang có kế hoạch cắt giảm 8,000 vị trí, nhà sản xuất xe hơi điện Rivian cắt giảm 700 vị trí, công ty khởi nghiệp về dịch vụ giao hàng Gopuff đang cho 1,500 nhân viên rời đi, và công ty cho vay tiền mua nhà LoanDepot đang loại bỏ 4,800 việc làm trong năm nay. Có vẻ như, nếu hiện nay tỷ lệ thất nghiệp chưa phải là đặc biệt cao, thì tỷ lệ này sẽ tăng lên.
Từ giữa tháng Ba đến cuối tháng Bảy, hồ sơ xin thất nghiệp lần đầu đã tăng 51%. Cục Dự trữ Liên bang đang có kế hoạch tăng lãi suất một lần nữa để giảm lạm phát, và ước tính tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng lên 4.1% vào năm 2024. Việc giảm việc làm được dự kiến sẽ dẫn đến ít vị trí tuyển dụng mới, và ít tạo việc làm hơn là sa thải rộng rãi.
Trong một vòng luẩn quẩn, sa thải, cắt giảm nhân viên, và thiếu nhân công thực sự có thể là một trong những lý do bỏ việc. Một số người lao động xem kiệt sức là lý do để họ bỏ việc. Việc nhân viên kiệt sức là do họ bị buộc phải đảm nhiệm nhiều vai trò khi công ty thiếu nhân sự.
Một vấn đề khác khiến tình trạng thất nghiệp và thiếu hụt nhân công thêm phần bế tắc là trí tuệ nhân tạo (AI) bị lỗi trong nhu liệu tuyển dụng từ chối các ứng cử viên đủ điều kiện. Nhiều hệ thống tuyển dụng được thiết lập để từ chối những ứng viên không có việc làm trong sáu tháng. Những đợt phong tỏa COVID trong năm 2020 và 2021 đã khiến một số lượng lớn người dân bị cách quãng về việc làm. Giờ đây, mặc dù họ muốn trở lại làm việc, nhưng AI buộc họ phải thất nghiệp.
Một nghiên cứu của Đại học Harvard ước tính rằng khoảng một nửa số người nộp đơn cho các vị trí có tay nghề cao đang bị loại ra. Khoảng 2/3 số người làm việc Mỹ đạt yêu cầu nhờ có các kỹ năng hơn là vì họ có các tấm bằng đại học, nhưng các ứng dụng tuyển dụng thường loại bỏ các hồ sơ xin việc của họ vì không hội đủ điều kiện về trình độ học vấn căn bản.
Có lo ngại cho rằng nếu công chúng xem việc cắt giảm việc làm, sa thải, và đóng băng tuyển dụng là một xu hướng, thì họ sẽ tin rằng Hoa Kỳ đang rơi vào một cuộc suy thoái. Nỗi sợ hãi về suy thoái có thể trở thành một lời tiên tri tự thành hiện thực khi mọi người giữ tiền mặt, ngại chi tiêu. Nếu mọi người chi tiêu ít hơn, các tập đoàn sẽ bị giảm doanh thu và sẽ sa thải nhân viên; do đó, điều này sẽ làm mạnh và xác nhận nỗi lo về một cuộc suy thoái kinh tế.
Quan điểm trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.
Tiến sĩ Antonio Graceffo đã có hơn 20 năm làm việc tại Á Châu. Ông tốt nghiệp Đại học Thể thao Thượng Hải và có bằng Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh của Đại học Giao thông Thượng Hải Trung Quốc. Ông Antonio là giáo sư kinh tế kiêm nhà phân tích kinh tế Trung Quốc, từng viết bài cho nhiều kênh truyền thông quốc tế.