Ý nghĩa của việc thiên đô của Lý Thái Tổ trong lịch sử Việt nam
Sau khi lên ngôi Hoàng-đế, vua Lý Thái-Tổ nghĩ ngay đến việc thiên đô. Ngài thấy đất Hoa-lư chật-hẹp, không có bề-thế, không thể lấy làm thủ-độ cho một dân-tộc mới phát nhưng đã mang một sức mạnh nên tràn lan, năm Thuận-thiên nguyên-niên (1010), vài tháng sau khi lên ngôi cửu-ngũ, ngài xuống thủ-chiếu dời đô. Tờ thủ-chiểu Lấy dịch ra như sau này:
“ Xưa nhà Thượng đến vua Bàn-Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến vua Thành-xương ba lần dời đô, há có phải là các vua đời Tam-đại theo ý riêng của mình, tự tiện dời-đổi đâu, chỉ tại là tính việc to-lớn, tìm chỗ giữa trong nước để đóng đô, tính cuộc muôn đời cho con cháu, trên nhìn mạnh trời, dưới theo lòng đàn, hễ có tiện-lợi thì thiên đô, cho nên ngôi nước được lâu dài. Thế mà đời Đinh, Lê, theo ý riêng, quên mạnh trời, không noi theo nhà thương, nhà Chu, cứ cầu an ở đây (tức Hoa-Lư) đến nỗi ngôi truyền không bền, số toàn ngắn-ngủi, trăm họ hao-tổn, muôn vật mất nghi, ta rất lấy làm buồn, không dời đi chỗ khác, thì không được. Phương-chi thành Đại-la là cố đô của Cao-vương, ở vào giữa khu vực của trời đất, có thể hồ cứ long bàn, chính ngôi đông tây nam bắc, tiện thể hưởng bội của núi sông, đất rộng và phẳng, cao và sáng sủa, dân-cư không lo ẩm-thấp, muôn vật, đều được giàu nhiều khắp xen trong cõi nước ta, thì ở đấy là hơn cả, thực là chỗ yêu hội bức-tấu của ở bốn phương, nơi thương-đô của đế-vương muôn đời, ta nay muốn nhân cái địa-lợi ấy để định chỗ ở vậy” (1) (Trần Trọng-Kim, Việt-nam sử-lược, trang 77).
Hoa-lư chỉ sống có một quãng đời ngắn-ngủi. Tuy vậy, nó đã là đô-kỳ của hai họ một họ đã gây được sự nhất-thống cho giống-nòi; một họ đã ngăn được một cuộc Bắc-xâm và chế-ngự được Chiêm-thành. Đấy cũng là nơi phát-sinh ra đế-nghiệp của người Việt-nam. Nhưng xét cho kỹ, nó chỉ có tinh-cách một nơi tụ-tập của bộ-lạc, không phải là kinh-thành của một dân-tộc văn-minh. Hơn nữa, nó còn để lại trong ký-ức người ta cái ám-ảnh của một cơn ác-mộng, dưới triều một vị chúa dâm-dục và bạo-tàn. Vì thế, vị đại-đế mà triều-đình đã tôn lên để ngự trị cõi Lạc-Hồng, vị chân-chủ mà dân Việt thầy đều ca-tụng lòng nhân và trí anh-minh, mới quả-quyết bỏ vết xe cũ, mà bước sang một con đường rộng rãi, mới-mẻ, và chắc-chắn là rực-rỡ cho tiền-đồ tổ-quốc. Dân-gian -trừ những người ở quanh vùng Hoa-lư ra không kể- đều hoan-nghênh việc làm của vua thánh. Phải chăng họ đã cảm thấy trước cái oai hùng của kinh-đô muôn thuở sau này ?.
Vậy tháng 7 năm Thuận-thiên nguyên-niên, vua sáng-nghiệp ra triều-đại lâu dài thứ nhất của lịch-sử Việt-nam, cùng quần-thần dời bỏ đất Hoa-lư mà tiến về phía thành Đại-la. Trách-nhiệm của nhà vua rất lớn-lao: sự thiên đó không những có quan -hệ cho họ Lý, lại còn quan-hệ đến sự tồn-vong của đất nước.
Ngài là bậc chúa-tể của muôn dân, tất phải nhận thấy trách-nhiệm của mình với tương-lai và vận-mệnh dân-tộc, nhưng trí cao-cả đã khiến cho ngài không nhầm trong ý-định và sự lựa chọn của mình. Trong tờ thủ-chiếu, ngài đã nói rõ về những cớ phải thiên độ, lấy dân làm gốc, và vạch rõ cái vị trí quan-trọng của kinh-thành mới đối với vị-trí non sông.
Ta không cần phải bàn nhiều về tờ thủ-chiếu ấy. Chỉ cần biết qua rằng thành Đại-la là cố-chi của nền đô-hộ. Thành ấy đắp từ đời Lý Nguyên-Gia nhà Đường, đến đời Cao-Biền thì nơi đó nghiễm-nhiên thành một thủ-phủ sự sầm-uất và kiên-cố của thời nội-thuộc, Người Tàu đóng ở đó mà thống-trị được người Việt và uy-hiệp được hết những dân tộc phương Nam. Cho nên không những vì tính-cách địa-dư, vì tính-cách bình-bị của nó, nhưng còn vì kinh-nghiệm lịch-sử mà vua Lý Thái-Tổ chọn nó làm đất chọn nó làm đặt đế-đô cho non sông Hoàng-Việt.
Ta hãy thử tưởng-tượng quang-cảnh khi vua và triều-đình ra thành Đại-la; Thời đô-hộ dã-man, khủng-khiếp vẫn còn ghi bằng nét tươi trong óc người Giao-chỉ, nhưng mối lo sống những ngày thảm-khốc và nỗi khổ kéo một cuộc đời mà tương-lai mờ-mịt như buổi hỗn mang, khi ấy không còn đè-nén ông cha ta nữa. Dân gian không len-lét và trốn nấp trong xó nhà như mỗi khi các quan đô-hộ chảy đi, kinh-khủng như một cơn gió bão, trái lại, họ thấy lòng bồng bột, sung sướng, nhẹ-nhõm, như khi ta tỉnh cơn ác mộng, thấy một bộ bình-minh tráng-lệ, với muôn hoa tươi thắm và chim hót tưng-bừng. Mà quả thực họ đứng trước một buổi bình-minh lịch-sử, vì đó là một ngày mở đầu một triều-đại vẻ-vang, ngày rực-rỡ mà ánh sáng còn chiếu mãi về muôn đời. Đoàn thuyền ngự vùn-vụt chéo trên làn nước đục, tàn vàng tán giá rợp trời và cờ ngũ sắc bay phấp-phới trước gió đầu thu. Chiêng trống vàng lừng, loa bắc trên một lầu truyền loan báo cho tứ phương biết rằng thiên-tử chảy qua, gieo-giắc mầm thịnh-trị. Hai bên bờ sông, hương-án bày san-sát và chính-tề, sơn son thếp vàng chói-lọi, các bô lão đứng nghiêm-trang để đón chào vị chân-mạng đế-vương, với tất cả tấm lòng khát-khao của kẻ thần-dân mộ đức. Ngày long-trọng đó là ngày hội của màu-sắc và thanh-âm, của lòng vui và của lòng hi-vọng.
Sử chép rằng, khi đoàn thuyền ngự tới Đại-la, đêm đầu tiên đức Thái-Tổ còn ngự ngoài thuyền, để các quan vào thành thu-xếp trước. Cũng đêm hôm ấy, sông cái bỗng nổi cơn mưa gió, sấm sét đùng-đùng. Vị chúa tể của muôn dân đóng ở đâu, thì dường như trời đất cũng phải chuyển vần. Tục-truyền rằng đó là giang-thần đến nghệnh giá Đức vua nhường trông rõ trên trời đen tối, thỉnh thoảng lại nhoáng nhoáng ánh chớp, một con rồng vĩ-đại bay rỡn, thế rất mạnh-mẽ, nhưng lại có cái dáng quy-phục và chào mừng. Đức vua cho đấy là một điểm tốt. Ngài mỉm cười, truyền miễn triều cho Thần-Sông: Một lúc sau, sóng gió ngớt tạnh. Hôm sau xa-gia vào thành. Ngài xuống chiếu báo tin rồng hiện cho nhân-dân, và đổi tên thành Đại-la – cái tên đó chàng còn là dấu-vết của thời đô-hộ sao ? -là thành Thăng-long, thành của điềm mừng cho dân-tộc, thành của hi-vọng và của vinh-quang. Tên ấy còn ngụ-ý rằng rồng Việt phải nép mình hơn một nghìn năm dằng-dặc nay lại hiện lên, mài rũa trong đau-khổ, nhưng đã luyện được một sức khỏe phi-thường và một sức sống dồi dào.
Đấy là nói sơ qua về bình-thực sự thiện-đô của vua Thái-Tổ nhà Lý. Về tinh-thần, và đứng về phương-diện lịch-sử, thì việc thiên đó về thành Thăng-long có một ảnh-hưởng vô-cùng qua-trọng cho vận-mệnh nước ta.
Sau khi vị cứu-quặc Ngô-Quyền Phá quân Nam-Hán, giết Hoằng-Thao, xô đổ đài đô-hộ, vén màn ánh sáng cho dân-tộc, ông cha ta mới được tự-chủ, còn đang bâng-khuâng, như tỉnh, như say, tựa-hồ con bướm mới thoát ra lô kén, mắt còn bị chói-lòa bởi ánh sáng bên ngoài. Vi thế, trong buổi mới, ông cha ta còn lúng-túng, còn ngơ-ngác, còn đắn-đo. Hơn nữa, còn nơm-nớp sợ cái ách người Tàu mà mình phải khó-nhọc mới được thoát. Cho nền nhà Ngô thì đóng ở Loa-thành, kinh-đô của một ông vua mất nước; nhà Đinh và nhà Tiền-Lê thì đóng ở Hoa-lư, lẩn-lút trong những miền rừng-rú. Biết đây là đất nghèo, địa-thế không tiện-lợi, nhưng vẫn phải ở, đi lánh cái uy của Trung-quốc. Trong thời-kỳ lịch-sử ấy, đối với người Tàu, ta chỉ là một giống mọi-rợ, ẩn-nấp xó rừng; mà đối với mình, ta tự lượng còn yếu ớt quá, nên phải trốn-tránh người Bắc, chưa dám ra mặt “các đệ nhất phương” như một vị vĩ-nhân sau này đã nói với tất cả lòng tự-phụ trong một bài văn hùng-tráng.
Nhưng dần dần cái vẻ kinh-hoàng của buổi mới mất đi. Xét lại sức mình, ta thấy có thể đường-đường đối thủ được với người Tàu, và có thể vẫy vùng để khuếch-trương thế-lực của mình về phương Nam. Tựa một con chim bằng hăng hái và trẻ mạnh, sức có thể bay xa vạn-lý, ta không chịu giam mình trong một xó như dan ngày, nên quả-quyết bỏ cái tổ bé-nhỏ và bất tiện, mà tìm đậu ở một nơi rộng-rãi thông-thênh, đê tiện lõi tung- hoành.
Ông cha ta đã chọn được một nơi đích-đáng để làm kinh-thành. Từ khi các đế-vương ta đóng đô ở thành “Rồng hiện”, trong khoảng bảy trăm năm, lịch-sử đã hiến cho ta không biết bao nhiêu trang oanh-liệt vẻ-vang. Phía trên, ta làm tỏa-triết cái oai-phong của người Tàu, nhiều lúc vũ-công hiển-hách của ta làm rung-chuyển cả khối Trung-hoa. Phía dưới, ta lại chế-ngự được giống Chiêm-thành và thống-trị được hét cả những dân-tộc ở phương Nam.
Thành Thăng-long, với cái tên tuyệt đẹp, là kinh-đô chỉ đem lại hạnh-phúc cho người Việt-nam, nó không phụ giống nòi ta. Cũng có nhiều phen nó phải qua những thời-kỳ nguy-hiểm, tối đen, nhưng nó có thể tự-hào rằng nó như một trang trung-thần, một bậc nghĩa-sĩ, Cho nên khi Thăng-long thành đất đế-đô tức là lúc dân ta bắt đầu phú-cường, và khi ta bỏ nó, cũng tức là ngày ta bắt đầu qua một thời-kỳ suy nhược.
NGUYỄN HUY TƯỞNG
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)