Bản dịch “ĐẠI – HỌC, TRUNG – DUNG” của ông Lê Chí Thiệp
Thoạt ngó cái nhan đề bằng năm chữ đỏ “Nền luân – lý việt – nam” (1) nổi bật trên bìa màu vàng, tôi ngỡ ngay rằng ông Lê – chí – Thiệp chừng đã cống – hiến cho ta một thiên khảo – cứu về môn luân – lý của cái nước mấy nghìn năm văn – hiến này.
Thế nhưng không ! Hai dòng chữ “antique carré 12” ở dưới đã vội cải – chính : cuốn sách này chỉ là bản dịch hai thiên “Đại – học, Trung – dung” ra tiếng mẹ đẻ.
Cũng đáng mừng ! Mừng vì người mình mang tiếng học chữ hán hàng mấy nghìn năm nay, nhưng có nhiều tín – đồ Nho – giáo vẫn cứ hờ – hững với việc giới thiệu tư tưởng của “Thánh – Hiền” ! Vậy mà công – việc dịch Truyện (Tứ – thư gồm Luận, Mạnh, Dung, Học, gọi là Truyện) nay lại được ông Lê – chí – Thiệp cáng – đáng, làm cho mấy nhà hiền – triết xưa của Đông phương lại như hiện thân thuyết pháp trên đàn văn – học nước nhà.
Như vậy chúng ta – tôi và các bạn – có thể tự – hào nói : nhờ việc làm của ông Lê – chí – Thiệp mà chúng ta khỏi tủi thẹn với hai ông M.G. Pauthier (2) và James Leg – ge (3) đã dịch được tứ thư ra tiếng pháp và tiếng anh, mặc dầu hai dịch – giả tây – phương này không từng chịu phép “báp – tem” của Nho – giáo.
Mừng vì, trước đây, tuy đã có bản dịch Trung – dung, Đại học của ông Trương – Vĩnh – Ký (4), bản dịch Đại – học của ông Nguyễn – khắc – Hiếu, bản dịch Trung – dung của hai ông Hà tư Vị, Nguyễn – văn – Đang (5), bản dịch Mạnh – tử của hai ông Nguyễn Đôn – Phục, Nguyễn Hữu – Tiến …, nay lại được thêm bản dịch Đại – học, Trung – dung của ông Lê nữa, thì các bản dịch ấy chắc sẽ làm rõ nghĩa lẫn cho nhau, độc – giả sẽ có nhiều tài – liệu để so – sánh kê cứu được.
Xin mời các bạn độc – giả cùng tôi thử đọc trang đầu thiên Đại – học mà ông Lê đã dịch:
Thầy Trình – tử nói rằng : “Sách Đại – học là sách của đức Khổng – tử để lại làm cai cửa cho kẻ mới học vào cõi đạo – đức. Đời nay nên coi đó mà biết người xưa, muốn học tập cho có phương pháp thứ tự, chỉ dùng thiên sách ấy trước, rồi mới đến sách Luận ngữ và Mạnh – tử. Học – giả cứ theo đó mà học thì khỏi bị sai lầm” (trang 7).
Vì bản dịch của ông Lê không dẫn nguyên văn chữ hán, nên muốn so – sánh, ta phải dở đến bản Tứ – thư chính – văn của Tàu.
Nguyên văn đây : Tử Trinh – Tử viết : Đại – học, không thị chi di thư nhi sơ học nhập đức chi môn dã. Ư kim khả kiến cổ – nhân vi học thứ đệ giả độc nại thủ thiên chi tồn, nhi Luận, Mạnh thư chi. Học – giả tất do thị nhi học yên tắc thứ hồ ky bất sai hĩ.
Sau khi đã đem nguyên – văn ra đối chiếu ta thấy dịch – giả đã “sai – lầm” trước học – giả rồi ! (hai chữ “học – giả” này, xin hiểu theo nghĩa của sách Đại – học coi nguyên – văn dẫn trên)
Vì câu “Ủ kim khả kiến…, nhi Luân Mạnh thư chi” chính thực thì nghĩa là “Ở đời nay mà có thể thấy được cái thứ – tự vi học của người xưa là chỉ nhờ có thiên Đại – học này còn lại, rồi thứ đến là sách Luận – ngữ và sách Mạnh – tử”. Vậy sao dịch – giả lại dịch là “Đời nay nên coi đó mà biết người xưa?”. Xin hỏi : biết cái gì của người xưa kia chứ? Trong nguyên văn có gì là “muốn”, là “phương pháp” đâu, sao dịch – giả lại tự ý thêm vào ?
Cử một mẩu văn dịch ấy để làm lệ, đủ thấy ông Lê, khi dịch, không chịu thận – trọng từng chữ, từng ý. Xin nhớ : đây là bản dịch chứ không phải là “soạn ra quốc văn” như lời ông nói ở bài tiểu dẫn (trang 2). Đã là dịch, cần phải trung thực với nguyên văn, không được thêm vào, bớt ra một chút xíu nào. Muốn cho rõ nghĩa và giúp người đọc được dễ hiểu hơn, thì chỉ có cách là chua mà giải nghĩa thêm ở dưới.
Bây giờ tôi cùng các bạn đọc thử soát sơ một lượt, xem có chỗ nào cần phải bàn lại với dịch – giả để, mai sai, cuốn sách này nếu được tái bản, ông Lê nên sửa lại cho hoàn thiện hơn:
“…tại chỉ ư chí thiện” không phải là “ở sự đến chí thiện mới thôi” (trang 7). Chữ “tại” đây nên dịch là “cốt”, chữ “chỉ” nên dịch là “đóng”, (đậu, đỗ): “…cốt đóng ở chí thiện”. Ý nguyên văn nói : cái đạo Đại học là gì? Là cốt làm tỏ cái đức sáng, là cốt gần gụi với dân (6), là cốt lấy chí thiện làm cứu cánh.”
Về câu “…tại chỉ ư chí thiện” này, trong quyển Le Ta Hio ou La Grande étude của M.G.Pauthier dịch đúng hơn: “..consiste à…placer sa perfection…” (p.1). Trong lời chú của Trình – tử, học – giả đời Tống, cũng cắt nghĩa câu ấy rằng : “đến đỗ ở chỗ chí – thiện mà không dời đi” (…chi ư chí thiện chi địa nhi bất thiên) (7).
“…Trí nhi tại cách vật”, dịch giả dịch là : “…Biết đến chỗ cùng cực là ở sự cảm – thấu cái lẽ của sự vật’ (trang 8)
“Trí tri”? “cách vật” ? Dịch được cho vơ thật là trăm khó, nghìn khó ! vì nó là những danh từ trừu tượng, các nhà chú thích xưa mỗi thuyết một khác.
Theo Trình tử, thì “trí” nghĩa là ‘suy rộng cho đến cùng – cực”; “tri” cũng như “thức” (biết); “cách” nghĩa là “đến”, “vật” cũng như “sự” (việc). Vậy “trí – tri” là suy rộng cho cùng – cực cái trí – thức của ta, muốn cho những điền sở tri của mình đều được triệt để (dục kỳ sở trị vô bất tận). “Cách vật” là cùng – cực thấu đến các lý của sự – vật, muốn cho không chỗ cùng – cực nào của sự vật là không thấu tới được.(8)
Rồi Chu – tử, nho giả đời Tống, dựa theo ý của Trình – tử mà cắt nghĩa cho đầy đủ thêm về câu “trí tri tại cách vật” ấy: “…Ý nói: muốn suy rộng cùng cực (trí) cái điều biết của ta, thì phải tới từng vật mà xét cho cùng cái lý của nó. Vì tâm – linh của người ta, ai là chẳng có tri – thức; mà sự vật trong thiên – hạ, cái nào là chẳng có lý. Chỉ vì, về lý, có cái chưa thấu được kỳ cùng, nên cái biết của người ta cũng có điều chưa xuể hết. Bởi vậy, sự bắt đầu dạy của Đại – học tất khiến cho học – giả đối với bất cứ sự – vật nào trong thiên – hạ cũng phải xem xét tận nơi, nhân cái lý mình đã biết mà suy ra cho nó rộng thêm để cầu cho đến được chỗ cùng – cực. Khi đã dùng công – phu và sức – lực lâu rồi, một ngày kia, nó sẽ bật lên thông suốt, thì không một bề ngoài, bề trong, cái tinh, cái thô nào của mọi sự vật mà mình không thấu đến, và toàn thể, đại – dụng của lòng mình cũng đều sáng tỏ cả. Thế gọi là vật cách, thế gọi là tri đã trí đấy, (Đại – học trong Tứ – thư thể chú, tờ 6a – 6b).
Trái với kiến giả của hai Tống – nho trên, Vương – dương – Minh, học – giả đời nhà Minh, cắt nghĩa “trí tri, cách vật” lại khác hẳn : Trí tri là giữ cho thành thực, không dối với lương tri (tri lương – tri) (9); cách vật là cách bỏ những cái vật – dục. (Coi Vương – dương – Minh toàn tập).
Sở dĩ tôi phải nói dài về “trí – tri, cách vật” như vậy, là cốt muốn tỏ ra rằng nghĩa sách nó sâu nhiệm là thế, chứ có dễ dàng hạ bút được đâu.
Không muốn làm các bạn đọc phải tốn nhiều thì – giờ, tôi xin “gấp đường” đưa các bạn “đi” xem Trung – dung (trang 22 – 49) của ông Lê.
“…Hòa dã giả thiên – hạ chi đạt đạo dã”, ông Lê dịch là “…hoà ấy là đạo cả của thiên hạ” (trang 23). Chữ “đạt” mà dịch là “cả” thì lẫn nghĩa với chữ “đại”. Nên dịch là “…đạo suốt” thì đúng hơn. “Đạt” đây giống nghĩa như chữ “phổ – thông” : “…Hoà là cái đạo phổ – thông của thiên – hạ”. (vì hai tiếng “phổ – thông” nó có vẻ mới, nên tôi dịch là “suốt”).
“Rất trung lẫn hoà thì trời đất được yên sở, và vạn vật được toại sinh” (Trang 23), đó là ông Lê dịch nghĩa câu : “Trí trung hoà: thiên địa vị yên; vạn vật dục yên”. Chữ “trí” 神 này mà dịch là “rất” ? Thiệt sai quá !. Nên dịch “Suy rộng cùng cực mà làm cho đến được trung, hoà, thì trời đất được yên sở, muôn vật được toại sinh”.
“…Đạo kỳ bất hành hĩ phù !”, ông Lê dịch : “…Thương ôi ! người ta không hành đạo !” (trang 25). Nguyên – văn có chữ gì là “thương ôi” đâu, sao dịch giả lại cho thêm vào ? Nguyên văn đặt chữ “đạo” làm chủ – ngữ (sujet), sao dịch – giả lại đặt “người – ta” vào đấy ? Tôi tưởng nên dịch : “Đạo, đến không làm được mất thôi !”.
Nguyên – văn : “…Nhân dai viết dư – trí, trạch hồ trung – dung nhi bất năng cơ nguyệt thủ dã !”. Dịch – giả bỏ sót chữ “trạch”, nên mới dịch rằng : “…Ai nấy đều nói ta là người trí, thế mà không giữ đạo trung – dung được đến một tháng” (trang 25).
Lại như hai chữ “khả quân” (có thể cai – trị cách quân – bình) trong câu “…thiên – hạ quốc – gia khả quân dã…” mà dịch là “…thiên – hạ quốc gia có lẽ trị được…” (trang 26) : Không đủ nghĩa, không bằng M.G.Pauthier đã dịch : “Les Etats peuvent êtres gouvernés avec justice…”
Nói tóm, trong hai thiên “Đại – học, Trung – dung” ông Lê này tôi mới coi sơ một vài chỗ, đã thấy nhiều cái hỏng như trên, đủ biết rằng, khi dịch, dịch – giả đã quá hấp – tấp, không chịu thận – trọng, nên mới có những cái sai lầm đáng tiếc như thế !.
Mong rằng ông Lê nên sửa lại cho thật đúng để khỏi dẫn những người hậu – học vào con đường xa với nguyên – văn thì thật là một việc may lớn cho học – giới nước nhà.
Lại mong ông đổi lại cái nhan sách, đề rõ là : “Bản dịch Đại – học, Trung – dung”, chứ đừng nêu cái tên “Nền luân – lý Việt – nam” như thế, kẻo làm độc – giả nhận lầm !
HOA BẰNG
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
- Editions Lê – chi, Sai gon, giá 0p35.
- Doctrine de Confucius ou Les quatre livres de Philosophie morale et politique de la Chine, traduit du chinois par M.G.Pauthier, librairie Garnier Frères, Paris, 1921.
- The Four Books, with English transla – tion and notes by James Legge, D.D., LL.D – the Chinese book company – Shanghai, China.
- L’invaritable milieu transcrit en carac – frères latins et traduit en annamite vulgaire par Pétrus Trương Vĩnh Ký. Saigon College des Stagiairé. 1875 – In follo 205.
Đại – học —Chữ nho dịch ra quốc – ngữ, tựa chữ pháp ký tên Trương vĩnh Kỳ, (Sai – gon 5 Octobre 1887) In Folio viết tay, 87 trang.