Các trường đại học Hoa Kỳ đã mất uy thế
Không có gì kỳ dị hơn trường đại học của Hoa Kỳ đương đại.
Cách đây không lâu, người dân Hoa Kỳ từng thần tượng hóa các trường đại học của họ. Thật vậy, trong các lĩnh vực khoa học, toán học, kỹ thuật, y học, và kinh doanh, nhiều khoa và trường học có uy tín này vẫn nằm trong số những trường được xếp hạng hàng đầu trên thế giới.
Nền giáo dục đại học ưu tú này là lý do chính gây dựng nên sự ưu việt của nền khoa học, công nghệ, và thương mại hiện nay của Hoa Kỳ.
Sau Đệ nhị Thế chiến – với chiến thắng mà một phần là nhờ nghiên cứu khoa học, sản xuất và hậu cần vượt trội của Hoa Kỳ – một tấm bằng đại học trở thành điều kiện tiên quyết để có được sự nghiệp thành công. Dự luật GI đã cho phép khoảng 8 triệu cựu chiến binh trở lại trường đại học. Hầu hết đều được thăng tiến lên các vị trí công việc tốt.
Từ cuối những năm 1940 đến 1960, trường đại học là một nguồn tài nguyên phong phú của giáo dục tiếp tục (continuing education), đã đưa các tác phẩm văn học vĩ đại của thế giới, của Homer, Tolstoy đến với các tầng lớp trung lưu Hoa Kỳ.
Nhưng các trường đại học và cao đẳng ngày nay không còn có sự tương đồng với giáo dục đại học thời hậu chiến. Ngay cả trong những năm 1960 đầy biến động, khi các trường học đang nhức nhối với các cuộc biểu tình cấp tiến và bạo lực định kỳ, quyền tự do ngôn luận vẫn được thể chế hóa. Chương trình giảng dạy đại học thực nghiệm hầu như đều qua được giai đoạn hỗn loạn của những năm 60.
Nhưng bây giờ điều đó đã biến mất.
Thay vào đó, hãy tưởng tượng một nơi mà giấy chứng nhận ưu tú về giáo dục, bằng Cử nhân xã hội nhân văn, lại không bảo đảm việc một sinh viên tốt nghiệp có thể nói, viết, giao tiếp mạch lạc hoặc suy nghĩ linh hoạt.
Hãy tưởng tượng một nơi yêu cầu ứng viên đầu vào nộp điểm trung bình và kết quả bài kiểm tra tiêu chuẩn hóa cấp trung học, nhưng lại không yêu cầu sinh viên tốt nghiệp của chính họ phải vượt qua bài kiểm tra năng lực đồng nhất cơ bản.
Hãy tưởng tượng một nơi mà sau thời gian thử việc ban đầu, một số ít nhân viên thuộc giới tinh hoa được bảo đảm công việc trọn đời.
Hãy tưởng tượng một nơi được cho là chú trọng đến sự công bằng, mà chỉ có 30% giảng viên đủ đặc quyền để được bảo đảm công việc cố định. 70% còn lại là hạng hai, được phân loại là giảng viên bán thời gian hoặc “dự phòng”. Và phần tiền lương theo giờ giảng dạy họ nhận được không tương xứng với những đóng góp ưu tú hơn của họ.
Hãy tưởng tượng một nơi ủng hộ các hoạt động tương tác của sinh viên và không ủng hộ “hành chính”, nhưng tỷ lệ giảng viên và quản trị viên là khoảng 1–1. Chi phí hành chính ngoài giảng dạy hiện nay bằng với chi phí dành cho việc giảng dạy trên lớp.
Hãy tưởng tượng một nơi mà “sự đa dạng” là đặc điểm nổi trội của tổ chức đó, khi các nghiên cứu cho thấy rằng đội ngũ giảng viên có khuynh hướng cấp tiến nhiều gấp 10 số lượng đồng nghiệp có khuynh hướng bảo tồn truyền thống.
Hãy tưởng tượng một nơi cấp tiến, mà vào năm 2021, chủng tộc vẫn có thể được sử dụng như một tiêu chí để lựa chọn và từ chối ứng viên, chọn bạn cùng phòng ký túc xá tiềm năng, phân khu ký túc xá, và hạn chế tiếp cận những nơi đặc biệt trong khuôn viên trường.
Hãy tưởng tượng một nơi cấp tiến đã từng bác bỏ theo cách vi hiến “lời thề trung thành”, nhưng bây giờ đổi tên chúng thành “cam kết đa dạng” và yêu cầu tái đào tạo và đào tạo theo kiểu nhồi sọ.
Hãy tưởng tượng một nơi có các khoản tài trợ được miễn thuế lại hạn chế quyền tự do ngôn luận và biểu đạt. Các trường đại học bất vụ lợi khiến một số diễn giả không thể thuyết trình và thường đình chỉ quy trình hợp pháp được hiến pháp bảo vệ đối với những sinh viên đang đối mặt với những cáo buộc nào đó.
Hãy tưởng tượng một nơi tập trung nhiều vào thu nhập, tiền vốn… thì trên thực tế là 800 trường cao đẳng và đại học lớn nhất giành được hơn 600 tỷ USD tài trợ. Tuy nhiên, chỉ có 20 trường đại học ưu tú chiếm một nửa tổng số đó. Và chỉ bốn trường – Harvard, Yale, Stanford, và Princeton – chiếm gần một phần tư tổng số tiền tài trợ.
Hãy tưởng tượng một nơi tự do đã tăng học phí và tổng chi phí cao gấp bội so với tỷ lệ lạm phát, với các sinh viên tốt nghiệp của họ hiện đang gánh khoản nợ sinh viên trị giá 1.7 nghìn tỷ USD. Chẳng có mấy hy vọng rằng các sinh viên mắc nợ này sẽ hoàn trả được nợ của họ, với trung bình hơn 30,000 USD mỗi người.
Hãy tưởng tượng một nơi chú trọng việc thể chế hóa nhân quyền nhưng lại chào đón gần 400,000 sinh viên đến từ đất nước Trung Quốc vi phạm nhân quyền – rất nhiều trong số họ là con em của những đảng viên “kỳ cựu” của Trung Cộng, những người mang lại nguồn thu nhập béo bở cho trường đại học.
Hãy tưởng tượng một nơi mà các giảng viên và sinh viên đang thay đổi tên của các đường phố, trung tâm, và các tòa nhà trong khuôn viên trường một cách có chọn lọc, nơi vốn để vinh danh các nhà tài trợ, sinh viên tốt nghiệp, và các anh hùng thế hệ trước, giờ đây bị cho là hẹp hòi và đã qua đời từ lâu. Tuy nhiên, kỳ lạ thay, các trường đại học không bao giờ thay đổi thương hiệu sáng lập danh tiếng của họ. Phải chăng những người sáng lập hay nhà tài trợ ban đầu như Leland Stanford, Elihu Yale, và Lord Jeffery Amherst không hẹp hòi bằng Cha Junipero Serra, Earl Warren, và Woodrow Wilson, những người đã bị xóa sổ khỏi một số trường đại học không?
Chừng nào các trường đại học đào tạo ra những sinh viên tốt nghiệp có trình độ học vấn cao và khoáng đạt với chi phí hợp lý và không để cho chính trị len lỏi vào giảng đường, thì người dân Hoa Kỳ mới không quan tâm nhiều đến những đặc điểm riêng như vị trí, công việc tuyển sinh, tài trợ không bị đánh thuế, sinh viên nổi loạn, và giáo sư lập dị.
Nhưng một khi họ bắt đầu tính phí đắt đỏ, cung cấp dịch vụ giáo dục nghèo nàn, luôn bị chính trị hóa, khiến hàng triệu người mắc nợ, và hành động đạo đức giả, thì các trường đại học đã khiến người dân Hoa Kỳ quay lưng với họ.
Giống như một Hollywood chuyên giảng đạo lý làm nhức óc khán giả khi họ không còn có thể tạo ra những bộ phim hay nữa, một trường đại học được tôn vinh một thời, mà giờ đây tự cho mình là chính nghĩa, dường như trở nên rỗng tuếch khi thu phí cao nhưng chất lượng kém.
Tác giả Victor Davis Hanson là nhà bình luận theo phái bảo tồn truyền thống, học giả nghiên cứu về những nền văn minh Hy lạp và La Mã cổ đại đồng thời là nhà sử học quân sự. Ông là giáo sư danh dự về văn hóa Hy Lạp và La Mã cổ đại tại Đại học Tiểu bang California, nhà nghiên cứu về văn hóa Hy Lạp và La Mã cổ đại và lịch sử quân sự tại Đại học Stanford, là thành viên của trường Cao đẳng Hillsdale và là thành viên xuất sắc của Trung tâm Hoa Kỳ Vĩ đại.
Quan điểm trình bày trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.