PAUL PREZZIA

Chủ Nhật, ngày 14/07/1776: Jemima Boone – cô con gái 13 tuổi của nhà khai khẩn người Mỹ Daniel Boone – cùng với hai người bạn, đã bị bởi một nhóm quân chiến tranh nhỏ người Cherokee và người Shawnee bắt cóc ngay ngoài khu định cư. Một vài ngày sau đó, nhờ vào sự tận sức của cha cô cùng sự dũng cảm và nhanh trí của cô và hai người bạn, họ đã được giải cứu. 

Chỉ 10 ngày sau khi ký bản Tuyên ngôn Độc lập, Jemima Boone và những người bạn của mình, Betsy và Fanny Callaway, đang hái hoa ở ngoài Boonesborough, một pháo đài và khu định cư ở biên giới. Các cô gái đi lang thang tới Sông Kentucky ở lân cận và quyết định chèo thuyền canoe. Đến một vùng nước xiết, canoe rất nhanh bị mất kiểm soát. Rồi bỗng nhiên, họ đã đến phía bên kia sông và mau chóng bị nhóm quân bản địa tập kích và bắt giữ.

Những người ở trong pháo đài Boonesborough nghe thấy tiếng hét của họ, trong đó có ông Daniel Boone, người đã bị đánh thức từ giấc ngủ trưa trong ngày lễ Sabbath. Còn không chờ mang giày, ông và một nhóm đàn ông khác đã chạy ra khỏi pháo đài và bơi sang phía bên kia bờ sông. Nhưng có vẻ đã quá muộn: Những người bản địa và ba cô gái đã không còn tăm tích. Tuy nhiên, sau khi dò tìm cẩn thận lại, ông Boone đã phát hiện ra dấu vết của họ, và ông cùng đồng đội bắt đầu cuộc truy lùng theo các dấu vết này.

Đây là bức tranh chân dung duy nhất của ông Daniel Boone được vẽ khi ông còn tại thế. Bức tranh này được thực hiện khi ông 84 tuổi và đang sống với con gái ông, bà Jemima Boone Callaway, ở tiểu bang Missouri. Tranh phác thảo sơn dầu vẽ ông Daniel Boone do họa sĩ Chester Harding thực hiện, năm 1820. Tranh sơn dầu trên vải canvas. (Ảnh: Tài sản công)
Đây là bức tranh chân dung duy nhất của ông Daniel Boone được vẽ khi ông còn tại thế. Bức tranh này được thực hiện khi ông 84 tuổi và đang sống với con gái ông, bà Jemima Boone Callaway, ở tiểu bang Missouri. Tranh phác thảo sơn dầu vẽ ông Daniel Boone do họa sĩ Chester Harding thực hiện, năm 1820. Tranh sơn dầu trên vải canvas. (Ảnh: Tài sản công)

Tự giúp mình

Ba thiếu nữ này hầu như không có khả năng kháng cự trước năm người lính trưởng thành, nhưng họ vẫn nhớ được những gì có được từ quá trình lớn lên trong thời kỳ khai khẩn và các bí quyết để cân bằng tình thế trong khả năng của mình. Những người lính bản địa cố ép họ cưỡi ngựa để có thể di chuyển nhanh hơn. Ba cô gái thực tế là lớn lên trên lưng ngựa, nhưng vẫn giả vờ như họ chưa bao giờ cưỡi ngựa trong đời và liên tục bị ngã. Thêm vào đó, và quan trọng hơn là các cô vẫn giữ được bình tĩnh và đã để lại những dấu vết nhỏ. Jemima thả lại một sợi chỉ với năm nút thắt – để người cha mà cô biết là đang đuổi đến, không những biết là ông đã đi đúng đường, mà còn biết được số lượng những kẻ bắt cóc.  

Quan trọng hơn hết, Jemima, Betsy, và Fanny luôn giữ cảnh giác. Vào ngày thứ ba sau khi bị bắt, ông Boone và người của ông đã thành công trong chuyến đi nguy hiểm qua vùng hoang dã này, đuổi theo kịp những người [lính] bản địa bằng phương pháp tìm đường và lần theo dấu vết của họ. Tuy nhiên, thành tựu này là phần dễ; phần khó khăn là bước giải cứu. Cuộc tập kích bất ngờ phải diễn ra vô cùng nhanh và âm thầm để họ có thể đánh bại những người lính trước khi nhóm tù nhân này (ba cô gái) bị sát hại hoặc bị bắt làm con tin; điều này yêu cầu các cô gái phải tỉnh táo cao độ hơn cả những người lính. Sau hai đêm thức trắng mà không bị rơi vào tình trạng nản lòng, họ vẫn sẵn sàng. Một tiếng động trong bụi cây khiến một người lính và cô Jemima nhìn lên; người lính bỏ qua tiếng động sau một lát, nhưng cô Jemima đã nhận ra cha cô, “đang trườn bằng ngực của ông như một con rắn.”

Vào thời điểm này, ba thiếu nữ không chỉ vượt trội hơn những kẻ bắt giữ họ là những nam nhân trưởng thành, mà còn xuất sắc hơn cả những người giải cứu họ. Một người đàn ông trong nhóm giải cứu của ông Boone đã hoảng sợ và suýt làm hỏng mọi thứ, nổ một phát súng trước khi có tín hiệu. Tuy nhiên, Jemima và Fanny đã sẵn sàng hành động và lao xuống đất, trong khi Betsy có cuộc chạm trán sinh tử với một vũ khí chiến đấu. Nhóm giải cứu lao vào trong lều, chiếm thế thượng phong trước quân bản địa, và những người lính sống sót đã bỏ chạy.

Có niềm vui và có cả tiếng khóc. Ông Daniel Boone đã nói trong nước mắt: “Cảm ơn Chúa Toàn năng, các chàng trai, vì các cô gái đã an toàn. Bây giờ thì hãy ngồi xuống cạnh họ và khóc thật to nào.”

“Ông Daniel Boone & những người bạn giải cứu con gái Jemima của ông,” tranh của họa sĩ G.W. Fasel, vẽ năm 1851. (Ảnh: Tài sản công)
“Ông Daniel Boone & những người bạn giải cứu con gái Jemima của ông,” tranh của họa sĩ G.W. Fasel, vẽ năm 1851. (Ảnh: Tài sản công)

Lịch sử là ký ức của nhân loại

Câu chuyện về ông Boone, con gái ông, và những người bạn của cô, đã mãi được ghi nhớ theo hai cách – đầu tiên, bằng một quyển sách xuất bản năm 1784 về ông. Quyển sách này được cho là nguồn gốc của “huyền thoại” về ông Boone. Nhưng câu chuyện này cũng đã được truyền miệng, từ mẹ sang con, từ dì sang cháu gái, và giữa bạn hữu với nhau. Hậu nhân của các cô gái này nhớ đến họ như những người phụ nữ mạnh mẽ và thông tuệ. Con gái của cô Betsy chỉ ra rằng mẹ mình là “một tay chèo mạnh mẽ”. Cô Jemima được nhớ đến vì đã nói về những người bắt giữ cô một cách đầy cảm thông: “Những người Mỹ bản địa đó thực sự rất tử tế với chúng tôi, hết mức có thể, hoặc trong khả năng cho phép.”

Những cô gái này có gia đình và một cộng đồng đã chuẩn bị cho họ khả năng tự chăm sóc bản thân, và dạy cho họ những đức tính như sự nhạy bén và lòng can đảm – là điều giúp họ hoàn thành phần việc của mình để được giải cứu.

Bài viết nguyên gốc được đăng tải trên tạp chí American Essence. 

Giai Kỳ biên dịch

Chia sẻ bài viết này tới bạn bè của bạn