Chuyên gia: ‘Giai đoạn tiếp theo’ của lạm phát đang đến
PETR SVAB
Một nhà kinh tế cảnh báo rằng những người Mỹ bị lạm phát ảnh hưởng nên chuẩn bị tâm lý cho một nền kinh tế bấp bênh hơn. Ông cho biết, lạm phát xảy ra theo nhiều giai đoạn, và dựa trên tiền lệ lịch sử, giai đoạn tiếp theo mà Hoa Kỳ phải đối mặt sẽ không tốt đẹp.
Lạm phát đã gia tăng trong hơn một năm, sau khi đợt chi tiêu khổng lồ của chính phủ trong đại dịch COVID-19 khiến Cục Dự trữ Liên bang phải in thêm hàng ngàn tỷ dollar. Giá tiêu dùng tăng 8.6% trong tháng Năm so với cùng thời kỳ năm ngoái, trong đó giá một số mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, nhà ở, và thực phẩm đặc biệt tăng mạnh.
Người dân Mỹ hiện đang nhanh chóng nhận ra những hậu quả kinh tế. Theo ông Ross McKitrick, giáo sư kinh tế tại Đại học Guelph ở Ontario, đây là giai đoạn 2, với giai đoạn 3 và 4 dự kiến sẽ tiếp tục.
‘Ảo tưởng về tiền bạc’
Giai đoạn đầu của lạm phát xảy ra khi tiền mới in đi vào nền kinh tế.
Ông nói: “Chính là tại giai đoạn đầu tiên đó, quý vị có ảo tưởng về tiền bạc. Có nghĩa là mọi người nghĩ rằng họ có nhiều tiền hơn họ thực có,” và lưu ý rằng điều này khiến mọi người chi tiêu nhiều hơn, tạo ra một thời kỳ bùng nổ kinh tế ngắn hạn.
Ông McKitrick nói với The Epoch Times: “Nhưng họ không thực sự có nhiều tiền hơn so với ban đầu. Những gì họ có là nguồn cung tiền bị pha loãng.”
Tuy nhiên, sự pha loãng như vậy không ảnh hưởng đến mọi người như nhau.
Ông nói: “Có một lợi thế trong việc tiêu sớm, bởi vì nếu quý vị nhận chi phiếu kích thích chi tiêu đó sớm, quý vị ra ngoài và mua hàng khi các mức giá khác vẫn còn thấp. Một tháng sau, những mức giá đó có thể tăng lên. Đương nhiên, vào lúc đó, cùng tấm chi phiếu đó lại có sức mua kém hơn rất nhiều, nhưng tất cả các khoản tiền khác của quý vị cũng vậy.”
Theo ông McKitrick, nếu mọi người có thể dự đoán chính xác giá trị số tiền của họ sẽ giảm đi bao nhiêu do sự lạm phát của cung tiền, thì họ sẽ suy nghĩ kỹ về những gì mà họ thực sự có khả năng mua được. Thật không may, mọi người thường chỉ đi đến kết luận đó khi nhìn lại, sau khi giá đã tăng.
Ông nói: “Tại thời điểm đó, quý vị có thể xem xét kỹ điều này và nhận ra, “Ồ, đáng lẽ tôi sẽ không mua chiếc xe đó nếu tôi biết điều gì sắp xảy ra.”
Thực tế bắt đầu
Khi mọi người nhận ra rằng họ có thể mua ít hơn bao nhiêu với những mức giá mới, thì đó là lúc mà kỳ vọng sẽ phát huy tác dụng. Đây có phải là một việc chỉ xảy ra một lần không? Giá sẽ hạ xuống trở lại một lần nữa?
Ông McKitrick nói: “Mọi người có thể đương đầu với rất nhiều thứ tạm thời. Nếu quý vị nghĩ rằng, ‘Được thôi, giá xăng tăng và sẽ cao trong một hoặc hai tháng, và sau đó nó sẽ trở lại bình thường,’ thì sẽ không ai thay đổi hành vi của họ để thích ứng với điều đó.”
“Nhưng bây giờ chúng ta đang ở thời điểm mà mọi người đang nhận ra, ‘À, giá xăng và dầu diesel đã tăng gấp đôi… và tôi không thấy giảm trong thời gian trước mắt,’ và sau đó, ‘Tôi thực sự phải bắt đầu đưa ra quyết định bây giờ.’”
Vào lúc này, mọi người bắt đầu cắt giảm chi phí của họ.
Ông nói: “Vì vậy, đó là giai đoạn hiện nay của chúng ta.”
‘Thương lượng khó khăn’
Ông McKitrick nói: “Giai đoạn tiếp theo của tiến trình lạm phát này xảy ra khi thị trường lao động bắt đầu điều chỉnh.”
Ông nói: “Vì vậy, ngay bây giờ, quý vị có rất nhiều công nhân đã bị cắt giảm 10% lương trong thực tế. Và họ sẽ không đầu hàng. Bây giờ họ sẽ đến gặp người chủ và đề nghị kiểu trợ giúp nào đó bằng hình thức trả lương cao hơn, và người chủ sẽ phản kháng bởi vì mọi chi phí đầu vào của họ đã tăng lên và chẳng có thêm 10% ngân quỹ để chi trả.”
“Và trên thực tế, cả hai bên đều có lý lẽ xác thực để chứng minh rằng đây không phải là khoản tiền mới, đây không phải là tỷ suất lợi nhuận lớn hơn – người lao động đã mất đi sức mua.”
Anh ta sẽ dự tính một kiểu “đình công và thương lượng cứng rắn” nào đó trong thời gian tới đây.
Ông nói: “Nếu kiểu quy trình dàn xếp tiền lương đó được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát, thì điều đó sẽ trở thành động lực tăng giá mới” được gọi là “vòng xoáy tiền lương – giá cả.”
Tương tự như lạm phát trong những năm 1970, chừng nào mà mọi người còn mong đợi được tăng lương để theo kịp lạm phát, thì lạm phát sẽ không biến mất, vì chi phí lương sẽ được tính vào giá của sản phẩm cuối cùng.
Ông McKitrick nói: “Quý vị không bao giờ thoát khỏi lạm phát chừng nào mọi người còn ‘mong’ lạm phát ở đó.”
Cắt lương
Giai đoạn thứ tư xảy ra sau khi doanh nghiệp và người lao động cuối cùng đã có thể hòa giải.
Ông McKitrick nói: “Điều quý vị đang tìm kiếm trong toàn bộ quá trình đó là ai sẽ đầu hàng?”
“Cuối cùng thì… giá cả tăng thêm 10 hoặc 20%, và thời điểm việc này phải kết thúc, ai đó phải đầu hàng và chấp nhận điều đó như một khoản lương giảm. Giai đoạn chúng ta đang tiến vào bây giờ là cuộc thương lượng khó khăn về việc ai sẽ đầu hàng.”
Các giải pháp
Tại Hoa Kỳ, cơ quan chịu trách nhiệm chống lạm phát là Cục Dự trữ Liên bang.
Chủ tịch Fed, ông Jerome Powell, đã trích dẫn số liệu cơ hội việc làm gần đây nhất – khoảng hai công việc có sẵn cho mỗi người đang tìm việc – như một lý do để Fed tăng lãi suất, thắt chặt nguồn cung tiền, làm chậm nền kinh tế, và do đó hạn chế số lượng cơ hội việc làm. Về lý thuyết, điều đó sẽ làm giảm áp lực tăng lương đối với doanh nghiệp.
Ông McKitrick nghi ngờ lập luận đó.
Đúng là trong tháng Tư, ước tính có khoảng 11.4 triệu cơ hội việc làm và chưa đến 6 triệu người được phân loại là thất nghiệp. Nhưng đó là bởi vì bất kỳ ai không tìm việc trong bốn tuần trước đó sẽ không được tính là thất nghiệp nữa.
Ông nói: “Đó không phải là vì nền kinh tế Hoa Kỳ đang tăng trưởng với tốc độ đặc biệt và có điều gì đó bất thường xảy ra ở phía nhu cầu.”
“Đây là một tình huống bất thường về phía cung cấp (supply), và có liên quan nhiều hơn đến các biện pháp chính sách khác nhau đã được thực hiện… theo đó mọi người không cần phải tham gia vào thị trường lao động như trước đây. Vì vậy, trong vài năm qua, sự gắn bó của người dân với thị trường lao động đã yếu đi khá nhiều.”
Thật vậy, việc rót thêm tiền mới được đi kèm với nỗi lo về COVID-19 và sự đóng cửa kinh tế do chính phủ gây ra. Hàng triệu người Mỹ đã mất hoặc rời bỏ việc làm, và ngay cả khi nền kinh tế mở cửa trở lại, nhiều người vẫn chưa quay trở lại.
Nếu nền kinh tế trước đại dịch chỉ cố gắng xoay sở để bắt kịp với sự gia tăng dân số, tạo thêm khoảng 74,000 việc làm trung bình mỗi tháng, thì Hoa Kỳ lẽ ra phải có thêm khoảng 2.4 triệu người làm việc vào tháng Năm.
Ông McKitrick nói: “Vì bất cứ lý do gì, rất nhiều người vẫn chưa điều chỉnh bản thân trở lại với những kỳ vọng thường lệ của công việc toàn thời gian, và họ đã không phải làm như vậy.”
Như ông đã chỉ ra, đây không phải là “điều mà Fed có thể sửa chữa”.
Ông nói: “Chính phủ cần xem xét lại tất cả các chính sách thị trường lao động để cố gắng thu hút lực lượng lao động tham gia.”
‘Hạ cánh mềm’
Ông cho hay, để kiềm chế lạm phát, giới thẩm quyền “trước hết phải ngừng mở rộng nguồn cung tiền” – có nghĩa là phải kiểm soát “chính sách tài khóa” của chính phủ.
Không có dấu hiệu nào cho thấy chính phủ đang đi theo con đường đó. Ý tưởng mới nhất của chính phủ Tổng thống Biden là cho phép người Mỹ tạm ngưng đóng thuế xăng dầu [thuế liên bang, trong ba tháng]. Việc tạm miễn 18.4 cent/gallon thuế xăng này sẽ giúp người lái xe tiết kiệm dưới 4% chi phí nhiên liệu hiện tại.
Khoản thuế này đóng góp khoảng 36 tỷ USD mỗi năm cho Quỹ Tín thác Xa lộ liên bang – quỹ này chi trả cho việc sửa chữa cầu đường cũng như phát triển phương tiện công cộng. Về căn bản, quỹ này đã phá sản, và chính phủ liên bang, dù bản thân đã lâm vào cảnh thâm hụt, đã liên tục cứu trợ nó. Do đó, việc giảm thuế sẽ có nghĩa là phải vay nhiều tiền hơn hoặc in nhiều hơn.
Các đại diện của Fed đã nói về một “cuộc hạ cánh mềm” – làm chậm nền kinh tế vừa đủ để kiềm chế lạm phát, nhưng không quá nhiều để gây ra suy thoái.
Ông McKitrick thừa nhận rằng Fed đã “làm khá tốt” trong việc hạ cánh mềm nền kinh tế vào những năm 1990; khi đó lạm phát tăng nhẹ và Fed nhanh chóng ngăn chặn điều đó bằng cách mạnh tay tăng lãi suất.
Tuy nhiên, lần này Fed đã đợi một năm mới tăng lãi suất, ban đầu xem lạm phát chỉ là “tạm thời”.
Ông McKitrick nói: “Hiện tại, họ đang tụt lại phía sau trong việc cố gắng hạ cánh nhẹ nhàng.”
Tuy nhiên, sự can thiệp của Fed vẫn có thể đóng một vai trò nào đó.
Ông nói: “Những gì Fed cuối cùng có thể làm là thay đổi kỳ vọng.”
Ông cho biết, nếu mọi người tin chắc rằng giá cả ít nhất sẽ ngừng tăng đáng kể, thì “sẽ loại bỏ nhiều áp lực lạm phát trong nền kinh tế” vì “về căn bản, mọi người học cách sống với mức giá hiện tại của mọi thứ,” mà không đòi hỏi mức lương cao hơn.
Vấn đề là Fed đang phải đối mặt với một hệ thống tài chính đầy biến động, trong đó lãi suất cao hơn có thể dễ dàng kích hoạt một cuộc suy thoái.
‘Nghiện’ nới lỏng định lượng
Sau cuộc khủng hoảng nhà đất năm 2008, Fed đã bơm hàng ngàn tỷ dollar vào nền kinh tế mà không gây ra lạm phát tăng nhanh đối với hàng tiêu dùng.
Ông McKitrick nói: “Nguồn cơn nằm ở việc mua tài sản.”
Ban đầu Fed mua cổ phiếu và chứng khoán được bảo đảm bằng nợ nhà (MBS) và sau đó công khố phiếu và MBS, theo cách họ gọi là “nới lỏng định lượng”, tạo ra những đồng dollar mới trong quá trình này. Nhưng số tiền đó phần lớn đổ về các tổ chức tài chính không sử dụng chúng để mua hàng tiêu dùng mà là để mua cổ phiếu, trái phiếu, và các cổ phiếu khác.
Ông McKitrick nói, trong khi đó, “các ngân hàng không cho vay quy mô lớn.” Điều đó có nghĩa là những đồng dollar mới này ở một mức độ nào đó đã được giữ ở ngoài thị trường tiêu dùng, và do đó nằm khuất tầm nhìn của những nhà quản trị ngân sách chính phủ, những người tính toán chỉ số giá tiêu dùng và chi tiêu tiêu dùng cá nhân – những thước đo lạm phát được sử dụng phổ biến nhất.
Tuy nhiên, nhiều nhà kinh tế lập luận rằng số tiền mới đó đã gây ra “lạm phát tài sản” trên thị trường cổ phiếu – thúc đẩy giá cổ phiếu vượt quá mức định giá dựa trên các dữ liệu tài chính căn bản.
Ông McKitrick nói, một số công ty “giao dịch dựa trên bội số rất cao so với lợi nhuận thực tế của họ.”
Thông thường, các nhà đầu tư sẽ định giá một cổ phiếu ở mức gấp 5 đến 10 lần thu nhập hàng năm của công ty.
“Nhưng quý vị đã có sự xuất hiện của tất cả các công ty truyền thông xã hội này, và các công ty phát trực tuyến, và các công ty dịch vụ nhu liệu, nơi mọi người đặt giá lên tới 75 hoặc 80 lần doanh thu bán hàng thực tế, và tất cả đều dựa trên kỳ vọng về tăng trưởng thu nhập trong tương lai,” ông cho biết. “Đó là nơi quý vị có một công thức tạo ra rất nhiều biến động.”
Ông cho hay bây giờ Fed đang tăng lãi suất, “Tất cả các nguồn tài chính giá rẻ cho phép các công ty đó phát triển nhanh chóng sẽ không còn nữa.”
“Sẽ có một số công ty đang nợ rất nhiều, và khi lãi suất tăng cao hơn trong bối cảnh các công ty này có dòng tiền mật khá ít – và tất cả đều trông chờ vào tăng trưởng trong tương lai – thì sẽ rất khó có thể chi trả hóa đơn lãi suất tăng gấp đôi.”
Hơn nữa, việc định giá thổi phồng đã trực tiếp gắn liền với kỳ vọng rằng Fed sẽ tiếp tục in thêm tiền.
Ông McKitrick nói: “Thị trường trở nên phụ thuộc rất nhiều vào hành động của Fed.”
“Vì vậy, bất cứ khi nào họ [Fed] đang cố gắng giảm nhẹ việc nới lỏng định lượng hoặc thực sự bắt đầu bán tài sản, thì sẽ có phản ứng tiêu cực khá nhanh trên thị trường chứng khoán.”
Rõ ràng là Fed đã bắt đầu làm vậy.