Dẫn giải và chú thích bài văn của Ngọc Hân công chúa tế vua Quang Trung
Công chúa Ngọc Hân là con vua Hiển-Tôn nhà Lê và Chiêu nghi hoàng-hậu.
Vốn tự-sắc hơn người, lúc nhỏ nhờ được giáo-huấn trong cung-đình, công-chúa thông suốt đồ-sử, lại tinh âm-luật, nổi tiếng là tay văn-chương xuất-thế.
Năm công chúa mới mười sáu tuổi, nhân Bắc-bình vương Nguyễn Huệ nhà Tây-sơn đem quân ra đánh Bắc-hà, hạ thành Thắng-long, vua Hiển-tôn muốn kén người lương-đống để giữ gìn cho xã-tắc, khôi-phục lại trật-tự cho quốc-gia, bèn theo lời Nguyễn hữu Chỉnh, gả Ngọc Hân công chúa cho Nguyễn Huệ.
Được ít lâu, vua Hiển-tôn thăng-hà. Nguyễn-Huệ theo nhời di chúc, lập tự-tôn Duy-Kỳ làm hoàng đế, niên hiệu Chiêu-thống. Sau khi xếp-đặt xong mọi việc, Nguyễn Huệ kéo quân về Nam.
Năm mậu-thân (1788), vua Chiêu Thống cấp cứu nhà Thanh. Tướng Tàu là Tôn-Sĩ-Nghị mượn tiếng giúp nhà Lê, đem 20 vạn quân sang đóng tại Thăng long.
Bắc-bình-vương được tin, từ Thuận-hóa kéo quân ra Nghệ-an lên ngôi hoàng-đế, kỷ nguyên Quang trung, rồi thẳng đường tiết ra Bắc, đánh đuổi được quân nhà Thanh. Sau khi làm lễ tuyên-phong, vua Quang-trung đem cung quyến ra Thăng-long, sách-lập Ngọc-Hân công chúa làm Hữu-cung như-ý hoàng-hậu. Khi ấy, hoàng-hậu đã sinh-hạ một hoàng-nam và một công chúa.
Một vị anh-hùng cái thế đã làm nên biết bao công nghiệp lừng lẫy trong một thời, tiếc rằng không được trường-trị lâu dài trong khi đương tiến hành nhiều công-cuộc hiển hách! Ngày 29, tháng 9, năm Nhâm-tý (1792), vua Quang-trung băng, ở ngôi được 5 năm (1788-1792) thọ 40 tuổi
Mười sáu tuổi, vui chữ vu quy, hai mươi hai tuổi, ra người sương phụ. Nửa đường đứt gánh, trăm mối sót-thương Ngoc-Hân công chúa đặt riêng một lễ ở Hữu-cung và tự soạn một bài văn, đứng giữa hai con thơ dại, tế chồng với những nhời bi-đát tả nỗi thương tâm cùng hai hàng huyết-lệ tuôn rơi:
Than rằng
Chín từng ngọc sáng bóng trung tinh (1) ngoài muôn nước vừa cùng trông về thủy (2).
Một phút mây che vùng Thái-bạch (3) trong sáu cung thoát đã nhạt hơi hurong (4),
Lơ rứt tắc lòng ly biệt,
Châu sa giọt lệ cương thường ! (5)
Nhớ phen bến Nhị thuận buồm (6) hội bái việt (7) chín châu (8) lừng lẫy.
Vừa buổi cầu ngân (9) sẵn dịp, đoàn ỷ-la (10) đôi nước (11) rõ ràng.
Hôn-cấu (12) đã nên nghĩa cả.
Quan-san bao quản dặm trường.
Nhờ lượng trên cũng muốn tôn Chu (13), tình thân hiếu đã ngăn chia đôi nước.
Song thế cả trót đã về Hán (14), hội hỗn đồng (15) chi cách trở một phương.
Lòng dẫu xót thay cơn cách chinh (16).
Thân lại nhờ gặp hội hưng vương
Thành Xuân (17) theo ngọn Long-cân (18) đạo tế-trị (19) gần nghe tiếng ngọc.
Cang Hữu (20) rạng màn dịch phất (21), tình ái-ân muôn đội nhà vàng (22).
Danh phận ấy cậy vun giồng mọi vẻ,
Nề nếp xưa nhờ che chở trăm đường (23).
Ơn sâu nhuần gội cỏ cây, chốn tăng tẩm chẳng pham chồi du-tử (24);
Lộc láng thơm tho hương khói, nơi miếu đình nào khuyết lễ trưng thường (25).
Mọi nỗi mọi nhờ trọn vẹn,
Một điều một được vẻ vang:
Phép hằng dìn hạc thược, tước thoa (26), buồng quế rạng khuôn Nội Tắc;
Điềm sớm ứng Chung Tư, Lân Chỉ, Phái Lam (27) thêm diễn thiên hoàng (28)
Mảy chút chưa đền đức cả;
Gót đầu đều trọn ơn sang.
Đền Vị Ương (29) bóng đuốc bừng bừng, lòng cần mẫn vừa khi dóng dả.
Miền Cực Lạc xe mây vun vút (30), duyên hảo cầu sao bỗng dở dang?
Ôi !
Gió lạnh buồng đào (31), rơi cầm nẩy sắt (32);
Sương pha cung đỏ, hoen phấn mờ gương.
Tiệc vầy vui nhớ hãy rành rành, nhịp ca múa bỗng khuây chừng Thần Ngự (33).
Buổi chầu chực tưởng còn phảng phất, chuông điểm hồi sao vắng chốn Cảnh Dương (34).
Vấn vít mấy !, bảy năm kết phát;
Đau đớn thay !, trăm nỗi đoạn trường.
Hé nhà sương (35) ngắm quyển cung châm (36), tiếng chi phất hãy mơ màng trên gối.
Nương hiền nguyệt, ngẫm lời đình chỉ, bóng thuý hoa còn phấp phới bên tường.
Hang núi cũng phàn nàn đôi chốn;
Cỏ hoa đều sùi sụt mấy hàng !
Liều trâm thoa mong theo chốn châu di, da tóc trăm thân nào có tiếc (37).
Âu cưỡng bảo luống ngập ngừng di thể, sữa măng đôi chút lại thêm thương ! (38).
Tiếc thay !
Ngày thoi thấm thoắt;
Bóng khách vội vàng.
Thuyền ngự tọa đã ngang ghềnh Thái Thuỷ !(39)
Bóng xe nhi (40) thẳng trỏ lối tiên hương (41).
Nẻo hoàng tuyền (42) xa cách mấy trùng, ngao ngán thêm ngừng cơn biệt duệ (43).
Chén hoàng-thuỷ kính dâng một lễ, xét soi xin thấu chốn dương gian.
Lạm bình
Trong một trường-hợp đau thương mà công chúa Ngọc-Hân còn đủ văn-tài để gồm trong phạm-vi chật-đẹp của một bài tế-văn: nào mối lương-duyên giữa mình với một vị anh hùng xuất-chúng, một người chồng đã thương yêu mình cùng-cực, đã duy-trì xã-tắc cho nhà Lê, giữ-gìn từ nghi-lễ đến tùng, thu, nào chưa vui xum-họp bỗng sầu biệt-ly, ân ái đương nồng giữa đường đứt gánh, nào đâu là di-ưu cho hai con thơ dại ! Nhời lâm ly bi-đát, nỗi thống khổ đau thương ! Văn-chương lưu loát, ý-chí sâu-xa. Thực là một thiên huyết-thư tuyệt tác của một vị công chúa, tiêu biểu cho nền văn-chương mà giới thời Lê-mất vậy !
NHẬT NHAM
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
Chú thích
1) Linh hồn kẻ trung-liệt đã khuất bàng-bạc trong ban đêm. Đây là sao giữa trời, tức là ngôi vua,
2) Vẻ thái bình thịnh-trị.
3) Sao Thái-bạch ở phương tây, mây che sao Thái-bạch là ý nói người chết.
4) Ý nói cung nhân trong 6 viện đều phai thắm, kém tươi vì tang vua Quang trung.
5) Tam cương là ba rường (vua tôi, cha con, vợ chồng). Ngũ thường là năm mối (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín )
6) Vua Quang-trung thẳng đường tiến quan theo sông Nhị-hà lên hạ thành Thăng-long,
7) Là cờ và cây việc làm tượng trưng cho cuộc toàn thắng lừng lẫy của vua Quang-trung
8) Do chữ “cửu châu” của Tàu mà ra. Xưa Tàu chia trong nước làm 9 châu, nên sau quen dùng “chín châu” để chỉ về đất nước
9) Sông Ngân tức là Vân-hán hoặc Ngân-hoàng hay Thiên-hoàng do vô-số hằng-tinh sáng mờ họp lại thành một khúc trắng trên trời, ta thường gọi là sông Ngân-hà. Tục truyền Ngưu-lang, Chức-nữ, hàng năm vợ chồng ly-biệt, đến ngày thất-tịch (7 tháng 7), đàn quạ nối đuôi bắc cầu qua sông Ngân-hà để vợ chồng Ngâu họp mặt. “Cầu Ngân sẵn dịp” ý nói việc nhân-duyên do trời tác-hợp. Lại có nghĩa cuộc hôn nhân giữa vua Quang-trung và Ngọc-Hân công chúa nhằm vào tháng ngâu.
10) Ý là lá gấm vóc. “Đoàn ỷ-la” là nói đám cưới đều mặc quần áo rực-rỡ.
11) Khi đó chia trong nước làm hai giang-sơn: giang-sơn nhà Lê tức Bắc-kỳ và giang-sơn nhà Tây sơn, gọi thường là hai nước.
12) Hôn-nhân.
13) Tôn nhà Chu. Vua Tây-sơn tôn-phù nhà Lê.
14) Vận nước đã thuộc về Tây-sơn.
15) Cuộc thống-nhất.
16) Thay đổi chính-trị, lập nền chính-thống cho quốc-gia.
17) Thành Phú-xuân tức thành Huế.
18) Cờ trận của nhà vua.
19) Tề-gia, trị-quốc.
20) Ngọc-Hân công-chúa được phong làm Hữu-cung Như-ý Hoàng-hậu.
21) Quạt bằng lông để che kiệu.
22) Nhà cho vợ đẹp ở, “Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên”, (dịch nhời vua Hán Võ-đế).
23) Khắp họ nhà Lê bấy giờ đều được nhờ ơn vua Quang-trung.
24) Hai thứ cây thường giồng nơi lăng-tẩm. Ý nói nhờ vua Quang-trung mà lăng tẩm nhà Lê được giữ cho nguyên ven,
25) Lê tế về mùa thu gọi là “thường” tế và mùa đông gọi
là “trung”. Ý nói nhờ vua Quang-trung mà tòa-miếu nhà LÊ được rỡ-ràng hương khói.
26) Các đồ dùng trong cung cấm. “Hạc-thược” là cái khóa hình con hạc đề khóa cửa cung. “Tước thoa” là cái thoa hình con chim sẻ dùng cài tóc của các bà phi.
27) Ví con em như chi lan ngọc thụ
28) Dòng dõi nhà vua
29) Vua Tuyên-vương nhà Cha đặt một cung để ra coi chầu từ lúc trời chưa sáng.
30) Vua Quang-trung cưỡi mây về cõi sung-sướng tức là thăng-hà.
31) Cảnh người sương-phụ phòng không lạnh-lẽo.
32) Cầm sắt là vợ chồng. Đàn cầm sắt đương gẩy thình-lình đứt giây gãy phiếm ! Ý nói vợ chồng đương đoàn-tu bỗng cái chết đến phân chia
33) Vua ngự.
34) Một cung của nhà vua treo chuông để đánh thức các cung nhân.
35) Một nơi trong cung-khuyết.
36) Nhời khuyên can các cung nhân,
37-38) Ý nói có thể chết theo chồng được, nhưng vì còn vướng hai mụn con thơ, nên phải dầu lòng ở lại để làm trọn bổn-phận người mẹ góa. “Cưỡng bảo” là tã lót, chỉ bóng về con thơ.
39) Một khúc sông, khi rước quan tài vua đi qua khúc sông này.
40) Xe để đưa ma.
41) Cõi tiên.
42) Suối vàng, thế-giới người chết