Đăng Lam thành sơn hoài cổ phú
Hồng-lĩnh thiên thu chung tú khi.
Bồng-sơn nhất lộ liệt tiên cung.
Khí Trung-lang một đấng hào hùng;
Văn Thái-sử lạ lùng từ thuở bé!
Đeo cầm, bạc ra chơi vận địa,
Một non sông một vẻ lưu đề.
Núi Lam-thành ngất ngất bên kia:
Xem phong cảnh, vui-vầy không muốn chán!
Một bầu rượu ra chơi khiển muộn:
Khách cùng ta là bạn phong-lưu.
Tính tình tang ! …, nào thấy gì đâu !
Những đá mọc, suối reo thành lũy đó!
Sực nhớ lại Trần, Minh chuyện cũ:
Kìa tướng-quân Trương-Phụ nó xây nên!
Sóng kình-nghê muốn nuốt Nam-thiên,
Mà cột đá vững bền nhờ có kẻ..
Quan Ngự-sử (2) một lòng trung nghĩa,
Sang cầu phong mà tháo-lệ băng thanh.
Nhờ tầng trên lại có ông xanh,
Non nước cũ rành rành đã định phận.
Le-thái-Tổ Lam-sơn tích phấn,
Một con dao nổi giận yên dân,
Phất nghĩa kỳ quét sạch bụi trần:
Còn cổ miếu tinh-thần còn rạng thấy…
Bây giờ thấy: non kia, thành ấy…
Quạnh rêu xanh, cổ ấy mịt-mù thay !
Nầy đá xây, nầy mây phủ, nầy tiếng còi mục-thụ, nầy giọng hát ngư ông,
Lên chốn nầy bằng điếu cổ phong,
Thương ôi nhỉ ! anh hùng đầu vắng tá…
Thôi ta hãy đề thơ vào đá:
Cho người xem Tạo-hóa khéo vần xây !
Kia kia kìa , bóng ngả về tây !
Trông giang hữu, áng mây còn dấp dới !
Kho giời đất mấy lâu dành-đợi;
Sẵn con thuyền lại sẵn đêm giăng..
Có nhân duyên lăng líu với chị Hằng
Nhiều ân ái bâng khuâng cùng người cũ !
Chốn ấy thực Đào-nguyên, tiên-lộ,
Sẽ ngâm thơ, đọc phủ mấy bài chơi.
Ca tỳ-bà riu rắt bên tai,
Giọng ngư phủ trêu ngươi lắm vẻ !
Tiên-sinh vẫn Thốc-sơn tuổi trẻ,
Mà khách là chính hệ Thai phong
Chơi nầy để khách non Bồng.
SÙNG-THANH sao lục
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
(1) Một hòn nói danh thắng, ở về địa phận phủ Hưng-nguyên, tỉnh Nghệ-an. Trên núi con dấu tích cột cờ và thành Trương-Phụ xây, dưới chân núi nhìn ra sông, có tòa đền thờ Nguyễn Biểu.