Hiến pháp Hoa Kỳ và nền Cộng Hòa – Chính phủ của tôn giáo và đức hạnh
Năm xưa khi Benjamin Franklin rời khỏi hội nghị về Hiến pháp, một phụ nữ đã đến hỏi ông rằng: “Ngài đã để lại cho chúng tôi những gì?” Franklin ngay lập tức trả lời: “Một nền Cộng Hòa, thưa bà, nếu bà và con cháu bà có thể bảo vệ được nó”.
Hiến pháp Hoa Kỳ đã thiết lập một chính phủ Cộng Hòa đầu tiên trên thế giới
Hiến pháp Hoa Kỳ là bộ luật tối cao của Hoa Kỳ được soạn thảo ngày 17/9/1787, dựa trên tư tưởng tam quyền phân lập giữa các nhánh Lập pháp (Quốc hội), Hành pháp (Tổng thống) và Tư pháp (Tòa án).
Cùng với Tuyên ngôn Độc lập viết năm 1776, bản Hiến pháp này đã thể hiện tinh thần khoa học, tiến bộ và nhân bản của người Hoa Kỳ trong việc xây dựng một quốc gia theo thể chế Cộng Hòa đầu tiên trên thế giới trong lịch sử cận đại.
Hiến pháp Hoa Kỳ là bản Hiến pháp lâu đời nhất và nổi tiếng nhất với trên 200 năm lịch sử. Từ khi có hiệu lực năm 1789, nó đã được tham khảo nhiều lần để làm mô hình cho các Hiến pháp của những quốc gia khác.
Quốc gia theo thể chế Cộng Hòa là gì?
Nền Cộng Hòa (Republic) bắt nguồn từ chữ “representatives” tức là cai trị bởi những người đại diện cho dân, chính phủ được lập ra bởi nhân dân, và hoạt động để bảo vệ lợi ích người dân, bảo đảm cho người dân được thừa hưởng các quyền mà Chúa ban và thực thi việc cai trị quốc gia theo Luật tự nhiên và Luật của Thần. (“The laws of Nature and laws of Nature’s Gods” là những dòng đầu tiên của Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và được coi là hiển nhiên)
“Để đảm bảo cho những quyền lợi này, các chính phủ được lập ra trong nhân dân và có được quyền lực chính đáng trên cơ sở sự đồng ý của nhân dân, rằng bất cứ khi nào một thể chế chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt nhất đối với an toàn và hạnh phúc của họ.” (Trích Tuyên ngôn Độc lập Mỹ)
Việc thiết lập ra Hiến pháp là có mục đích để quản lý chính phủ, hạn chế quyền lực của tổng thống và chia sẻ quyền lực của chính phủ để kiểm soát lẫn nhau. Hiến pháp không quản lý nhân dân mà cấp quyền cho nhân dân kiểm soát chính phủ.
Câu hỏi đặt ra là, nếu chính phủ Cộng Hòa không cai trị nhân dân, thì ai quản lý nhân dân? Nếu người dân ai cũng “tự do” định nghĩa quyền của mình theo bất cứ cách hiểu nào tùy ý như phe cấp tiến cổ xúy, thì chẳng phải xã hội sẽ đại loạn bất trị?
Trong chính phủ Cộng Hòa ai cai trị nhân dân?
“Government” có nghĩa là “chính quyền” hoặc “sự cai trị”. Sự cai trị luôn có 2 phần: cai trị từ bên ngoài và cai trị bên trong.
Cai trị bên ngoài được thực hiện thông qua cưỡng chế bằng các luật lệ do chính phủ tạo ra, và thực thi bằng hệ thống cảnh sát và nhà tù. Sự cai trị bên ngoài được thực thi bởi luật pháp.
Luật pháp có thể trừng trị khi một công dân vi phạm, nhưng không thể ngăn cản họ không phạm tội; luật pháp có tính răn đe nhưng không thể khiến họ không phạm tội. Vậy mới sinh ra luật pháp để trừng phạt khi con người phạm tội.
Vậy điều gì có thể ngăn con người không phạm tội?
Đó là lương tâm, khi con người tự cai trị mình từ bên trong.
Cai trị bên trong được điều khiển bởi đạo đức, lương tâm, làm theo những luật của Tự nhiên và của Đấng Tạo hóa (The laws of nature and laws of nature’s Gods – Tuyên ngôn Độc lập).
Con người tự nguyện tuân thủ các quy luật đó, không làm điều gì trái với đạo lý (Thiên đạo – Luật Tự nhiên). Đó cũng chính là các giá trị phổ quát tạo nên nền tảng đạo đức giúp con người nhận biết thế nào là thiện, ác, tốt, xấu.
Khi con người có thể tự cai trị được chính mình bằng lương tâm thì sẽ ít cần sự cai trị cưỡng chế từ bên ngoài. Tự cai trị bằng lương tâm bắt nguồn từ tôn giáo và giáo dục đạo đức, các giá trị phổ quát, các luật của Tự nhiên và lời răn của Chúa. Nếu không thể cai trị bằng lương tâm được thì cách cai trị dựa vào bên ngoài, mô hình cai trị sẽ là nhà tù, được điều khiển bằng nỗi sợ hãi, bạo lực, trừng phạt.
Đó là lý do mà các vị quốc phụ Hoa Kỳ đã xác lập quốc gia dựa trên quyền tối cao thuộc về Chúa chứ không phải chính phủ. Bởi vì những người lãnh đạo cao nhất cũng phải tự cai trị mình từ bên trong. Sẽ ra sao khi những người nắm quyền lãnh đạo hành pháp, lập pháp, tư pháp lại không có đạo đức?
Người lãnh đạo chỉ có thể bảo vệ các quyền của người dân, các quyền Chúa ban khi chính họ có nền tảng đạo đức cao quý. Khi một đất nước không thể tự cai trị bằng lương tâm thì chính phủ sẽ là độc tài chuyên chế và cơ chế pháp luật sẽ phức tạp để xử lý các vấn đề vì người dân không thể tự cai trị tốt mình. Dân chủ cũng không thể sinh ra từ một nhà nước như thế.
Ông Dr. Earl Taylor, một chuyên gia về các vấn đề chính trị và Hiến pháp Hoa Kỳ sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng bản Tuyên ngôn Độc lập nước Hoa Kỳ và Hiến pháp nước Hoa Kỳ đã đúc kết ra 28 nguyên tắc cơ bản hình thành nên tự do dân chủ ở Hoa Kỳ. Những nguyên tắc này cũng sẽ là tương đồng cho bất kỳ quốc gia nào mong muốn có được tự do và dân chủ thực sự.
Trong đó có những nguyên tắc sau:
- Nước Hoa Kỳ là một nền Cộng Hòa.
- Cơ sở đáng tin cậy duy nhất cho các mối quan hệ tạo nên chính phủ tốt và con người chính nghĩa là Luật Tự nhiên.
- Một dân tộc tự do không thể tồn tại dưới một nền Hiến pháp Cộng Hòa nếu họ không giữ vững đạo đức và nhân cách.
- Phương pháp tốt nhất để bảo đảm một dân tộc có đạo đức và nhân cách là bầu chọn lên những lãnh đạo có đạo đức.
- Chính phủ của những người tự do sẽ không thể tồn tại nếu thiếu tôn giáo.
Trong chế độ độc tài, chính phủ cai trị nhân dân. Trong chế độ Cộng Hòa, Thượng Đế cai quản nhân dân thông qua các giá trị đạo đức phổ quát, do đó chính phủ Cộng Hòa bắt buộc phải được thực thi qua đức hạnh, người dân tự cai trị được chính họ bằng các giá trị đạo đức được Chúa giảng trong Kinh Thánh.
Khi Tocqueville tới Hoa Kỳ, ông thấy dù nhà cửa có tồi tàn đến đâu, nhưng ở nhà mỗi người dân đều có cuốn Kinh Thánh và người dân rất chăm học Kinh Thánh. Học các lời răn của Chúa chính là cách để người dân tự cai trị mình bằng đức hạnh từ bên trong.
Chính phủ Cộng Hòa – một chính phủ của tôn giáo và đạo đức
Thomas Jefferson là Tổng thống thứ 3 của Hoa Kỳ từ năm 1801 đến năm 1809. Ông là một trong những nhà triết học chính trị có ảnh hưởng nhất nước Hoa Kỳ. Ông là người soạn thảo chính bản Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ. Ông viết:
“Khi người dân sợ chính phủ, chúng ta có độc tài. Khi chính phủ sợ người dân, chúng ta có tự do”.
Alexander Hamilton – một trong những nhà lập quốc Hoa Kỳ khẳng định:
“Chúng ta là chính phủ Cộng Hòa. Tự do thực sự không bao giờ được tìm thấy trong chế độ chuyên quyền hay trong sự cực đoan của một nền Dân Chủ”.
Đất nước Hoa Kỳ được xây dựng theo một nền Cộng Hòa, và sẽ luôn luôn là như vậy. Đó là lý do mà đất nước Hoa Kỳ không phải là chính quyền cai trị bởi độc tài như Đức Quốc Xã, Liên bang Xô Viết, hay Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chế độc tài sẽ định nghĩa đạo đức theo quan niệm của đảng và cưỡng chế thực thi thông qua bạo lực, cai trị bằng sự sợ hãi của dân chúng, nhà tù. Quyền lực của nhà nước vì thế sẽ mở rộng cực độ.
Các vị Cha Lập quốc tin rằng nền Cộng Hòa và quyền dân chủ Hoa Kỳ cần có một tiền đề quan trọng. Đó là người dân phải có đủ đạo đức, như vậy họ mới có thể tự kiểm soát bản thân, nếu đạo đức không đủ, nền tự trị sẽ không thể thành lập.
Một dân tộc tự do không thể tồn tại dưới một nền Hiến pháp Cộng Hòa nếu họ không giữ vững đạo đức và nhân cách. Chính phủ của những người tự do sẽ không thể tồn tại nếu thiếu tôn giáo. Mọi thứ đều được tạo ra bởi Thượng đế, vì thế tất cả nhân loại đều phụ thuộc một cách bình đẳng vào Ngài, và có trách nhiệm một cách bình đẳng với Ngài trong việc tự cai trị chính mình từ bên trong.
Khi các vị Quốc phụ nước Hoa Kỳ thống nhất kiến thiết nền Cộng Hòa đầu tiên trên thế giới giao quyền lực cho nhân dân kiểm soát chính phủ, điều đó thể hiện họ tin tưởng mạnh mẽ vào nền tảng tôn giáo và đạo đức của người Hoa Kỳ. Bởi vì một nền dân chủ mà không có ước thúc đạo đức thì sẽ trở thành vô chính phủ.
Pháp luật và chính quyền có thể cấm đoán trừng phạt nhưng không dạy con người yêu thương tha thứ nhau được. Thượng đế mới dạy con người yêu thương nhau. Tôn giáo và Thượng đế mới giúp người ta vượt lên trên luật lệ của thế gian.
“Mọi dạng chính phủ là kết tinh đạo đức của cả một dân tộc dân tộc” (Montesquieu)
Đảng Cộng Hòa là đảng của những người có quan điểm bảo thủ. “Conservative” thường được gọi là “bảo thủ”. Bảo thủ hiểu đúng theo nghĩa là “bảo vệ và giữ gìn, không làm mất đi” truyền thống, nền tảng căn bản các giá trị cốt lõi. Khi kết thúc nhiệm kỳ của mình, trong lời chia tay với người dân, Washington nói: “Hai trụ cột chống đỡ giúp đất nước chúng ta hưng thịnh chính là tôn giáo và đạo đức”.
Tự do và bình đẳng của đất nước Hoa Kỳ trở thành tượng đài của nền dân chủ của một quốc gia nhân đạo là bởi đó là thứ tự do và bình đẳng dưới quyền uy và sự bảo hộ của Chúa. Nền dân chủ Cộng Hòa mà các nhà sáng lập Hoa Kỳ tạo ra là nền dân chủ dựa trên đức hạnh, tôn giáo là nền tảng cội nguồn của đức hạnh.
Đó là lý do mà đất nước Hoa Kỳ trở thành vĩ đại. Một quốc gia tin tưởng tuyệt đối vào Thần, tất nhiên sẽ có sức mạnh lớn lao từ Thần, có trí tuệ do Thần ban cho và lòng nhân ái bao dung đủ lớn để chào đón những công dân ở các quốc gia khác.
Trong bài diễn văn nhậm chức của mình, Washington phát biểu: “Đức Chúa Trời thiêng liêng đã soi sáng tương lai của chúng ta. Người đã ban cho chúng ta sự phán đoán đầy trí tuệ. Đây chính là chỗ dựa trong sự thành công của chính phủ này”.
Tổng thống Donald Trump từng nói rằng ông suốt đời là một người “bảo thủ”. Đó là lý do mà ông đại diện cho nền Cộng Hòa, một chính thể làm nên sự vĩ đại của nước Hoa Kỳ bởi đức tin, lòng kính Chúa và kiên định bảo vệ đến cùng các giá trị đạo đức truyền thống.
Thông điệp xuyên suốt của Tổng thống Trump là làm “Hoa Kỳ vĩ đại trở lại” – Đó là sự trở lại một nước Hoa Kỳ truyền thống, của những giá trị vĩnh cửu mà Chúa ban cho, các giá trị đạo đức – tinh thần – đức tin. Sự trở lại đó, chính là niềm tin vĩnh cửu vào những giá trị truyền thống mà sứ mệnh của ông là đưa nước Hoa Kỳ trở lại con đường chính Đạo.