Hội nghị Diên Hồng
Xem quốc-sử, những thiên oanh-liệt, những khúc bi-ca không thiếu gì. Nhiều khi đọc, ta thấy phấn khởi nức lòng, nhiều khi ta thương tâm thổn thức, nhiều khi ta mắm lợi, nghiến răng. Nhưng ít khi có những sự lạ, đặc biệt xuất ư ý ngoại, khiến cho ta mang-nhiên như đứng trước một vật ở phương xa đưa lại, ngoài khuôn sáo ngày thường. Những chiến-công hiển-hách như Bạch-Đằng, Đống-Đa, thủ đoạn phi thường của Trưng-Vương, cuộc khởi nghĩa của Lê-Thái-Tổ, sự thất bại của Giản-Định, Trùng-Quang, vẫn là những trang bất hủ. Tuy vậy, trong luồng thiên diễn ở doanh hoàn, những việc đó, vẻ vang thực, bi tráng thực, nhưng đời nào chẳng có mà nước nào chẳng có? Trận Bạch-Đằng, Đống-Đa so với những chiến-thắng của Nã-Phá-Luân hay của Hàn-Tín cũng chưa lấy gì làm lạ, và cuộc hưng bình của chân chủ Lam-Sơn ví với sự nghiệp của Chu-nguyên-Chương cũng không có gì đặc biệt hơn. Những việc khác đại để đều như thế cả. Duy trong sử Việt ta, có một đoạn dị kỳ, nó không chói lọi như vàng, kinh động như sấm, nhưng nó biệt lập như một cô-phong độc-tu. Tôi muốn nói về hội nghị bô lão ở điện Diên-Hồng vào năm Thiệu-bảo thứ sáu đời nhà Trần (1248).
Thuở ấy, Âu-châu đang chìm đắm trong chế – độ phong kiến, các nước văn minh ở Á-đông còn nép dưới chính thể quân-chủ độc-đoán. Nước ta cũng vậy. Thế mà giữa lúc tinh-thần dân-chủ chưa hề mọc mầm ở một nước này và ở nước Tàu mà nhất nhất ta lấy làm khuôn mẫu, thì vua tướng nhà Trần, đứng trước một vấn đề sinh tử, đã có cái sáng kiến lạ lùng là hỏi ý kiến quốc-dân để quyết định, chắc nghĩ rằng trng sự tồn vong của nước, dân là gốc tất phải có trách nhiệm như những kẻ cầm quyền. Tình cờ, ta đã đi trước Mạnh- đức tứ-cựu hơn năm thế kỷ.
Bấy giờ, nhà Nguyên quyết ý đánh nước ta. Quân họp ở Hồ-nam, Quảng-tây, tất cả hơn 50 vạn, dưới quyền tiết chế thái- tử Thoát-Hoan, sắp chia đường sang xâm lấn. Ý Nguyên-Thế-Tổ là làm cỏ non sông Đại-Cồ , nên mới giao cái trọng trách ấy cho con và khởi một số quân đông như thế mà chắc chắn là tinh nhuệ vô cùng. Họ đưa thư sang đòi mượn đường để đánh Chiêm-thành. Các nhà cầm quyền ta ai cũng biết rằng đấy là một qủi-kế, nhưng không lạ gì sức mạnh của nhà Nguyên và tài chiến đấu của quân Mông-cổ đã vang lừng tiếng vô địch. Đấu cũng chết mà để cho họ đi qua cũng chết. Vua hội-nghị vương-hầu ở bên Bình-than. Trong cuộc họp này, ai nấy đều bị chinh phục bởi những tư tưởng trác-việt và những nhời nghị luận xác đáng của bậc kỳ tài là Hưng-đạo-vương và đều quả quyết chống cự với kẻ xâm lăng. Kế đó, tiên phong Hưng-đạo-vương làm Thượng-quốc-công, tiết-chế cả thuỷ lục chư quan và chia quân đi phòng ngự giặc.
Tuy đã quả-quyết rồi, nhưng hai vua Thánh-tôn Thượng hoàng và Nhân-tôn Hoàng-đế còn do-dự. Vì so thế mình với thế giặc thực chẳng khác trứng chọi với đá. Mà đã đánh thì ít nhất trong nước phải đồng lòng trên dưới như một. Muốn dò ý dân, và nghe nhời đề-nghị của Hưng-đạo-vương, vua xuống chiếu triệu các kỳ-lão trong nước họp ở điện Diên-Hồng để trưng cầu ý-kiến. Tin ấy truyền ra, thiên hạ đều sửng-sốt, chúng ta ngày nay lại càng sửng sốt hơn. Thực là một điều đặc-hạnh cho nhân-dân là những kẻ từ xưa đến nay vẫn bị loại ra ngoài vòng chính-trị. Vua vời vào kính bàn việc nước, kể cũng danh giá làm sao !. Có bao giờ thế được ? Mà phải lắm, họ cũng là một phần tử trong nước, họ cũng có trách-nhiệm về sự tồn-vong của nước. Nước là của cả mọi người, phải đâu của một họ ? ai nấy đều cảm-khích, phấn-khởi và đều ủ trong thâm-tâm cái ý tưởng ủng hộ triều-đình (tức là chính phủ) và chiến-đấu kỳ cùng cho tổ-quốc.
Trong cái xã hội trọng lễ-phép và kính-nể người già, thì những người đại diện cho quốc gia, thì những người đại-diện cho quốc dân tất-nhiên là những bậc bô-lão. Năm giáp-thân, mùa đông, tháng mười một, từ những xóm làng cô-lậu trong khắp cõi Lạc-hồng, các cụ hăng hái ra đi. Con cháu và dân làng chắc đã may cho các cụ những chiếc áo đẹp, sắm cho các cụ đủ cả tráp trầu, điếu ống, lồng ấp.v.v…họ cử người đi hầu các cụ, và trước khi khởi hành họ chắc đã bày tỏ ý kiến của họ để các cụ đạt lên chín bệ. Ý kiến ấy là chí quả-quyết, chiến-đấu, không chịu khuất phục quân thù. Các cụ từ bốn phương đi lại, người thì còn quắc thước, người thì đã phải chống gậy tre, người thì tóc hoa râm, người thì chòm râu trắng xoá. Mặt cụ nào cũng nghiêm-trang vì trên hai vai già yếu các cụ mang một sứ-mệnh lớn lao có quan-hệ đến sự sống còn của cả dân-tộc. Thăng-Long chưa bao giờ được tiếp những bậc lão thành, đạo-mạo như thế. Dân kẻ chợ kéo ra xem đông như kiến, nói cho đúng họ ra đón những vị đại-biểu tuổi cao toàn-quốc. Thực là một quang- cảnh lạ-lùng có một không hai, một ngày vô-cùng long-trọng trong lịch-sử nước nhà.
Giữa khi ấy, thì Thái-tử Thoát-Hoan, thấy vua ta bác lời yêu-sách mượn đường sang đánh Chiêm-thành, bèn hùng hổ tiến quân phạm bờ cõi. Dân Việt sống trong bầu không khí nặng nề…
Các vị bô lão nghiêm trung đã được vua mời vào điện Diên-Hồng, sân rồng, cột tía lần đầu tiên tiếp những khách quê mùa, vẻ bỡ ngỡ sợ sệt của các cụ già phản ánh với những lâu đài tráng lệ ở chốn tôn nghiêm, bầy ra một cảnh tượng kỳ thú. Sử chỉ sơ lược chép rằng: “Năm giáp thân, tháng mười hai, nghe quân Nguyên họp ở Hồ nam, Quảng Tây, hẹn ngày chia đường sang đánh nước ta. Vua cho vời các kỳ lão trong nước đến họp ở thềm điện Diên-Hồng, ban cho ăn và hỏi ý kiến đối với quân giặc. Ai nấy đều nói “Nên đánh” như thốt cùng một miệng”.
Sự biên chép vắn-tắt hoàn-toàn đông-phương ấy, tuy không làm thoả mãn tính tò mò muốn biết rõ ràng hơn về bữa tiệc lịch-sử này, nhưng ta cũng thấy rung động trong lòng, ta nhường trông rõ nét mặt cương quyết, sóng mắt long lanh của các đại biểu, khi các cụ trầm tĩnh cảm động, thu hết tàn lực để thốt ra, trước mặt quân vương, một câu đáp vắn tắt, hùng hồn, đanh thép, nó là kết tinh của lòng hăng hái và chí chiến đấu với quân thì của cả quốc dân. Trước cái lòng nhiệt thành, quả cảm và đức tự tin của các kỳ lão, vua và triều đình tất cũng phải như ta rung động đến tận đáy lòng. Bao nhiêu do dự đều tiêu tan hết: Sau lưng tướng sĩ còn tất cả mấy triệu dân làm hậu thuẫn, mấy triệu dân quả quyết một còn, một chết và gắn chặt với nhau bằng một mối đồng tâm sắt đá.
Hai vua có thể nói với các tướng sĩ: “Các ngươi đi đi, đi mà đánh đuổi quân thì, đi mà tìm lấy cái chết vinh quang để bảo vệ đất đai, nòi giống. Nước Việt là của chung, là của các ngươi đó. Các ngươi đi đi, đi và tin rằng cùng với các ngươi, cả nước đều một lòng quyết chiến; sau các ngươi còn cả mấy triệu dân đồng tâm hiệp lực, sẵn sàng chống cự đến kẻ cuối cùng. Các bậc kỳ lão là cha anh các ngươi, là những người tai mắt trong nước mà trẫm vừa triệu đến để hỏi ý-kiến đã đồng thanh xin đánh. Ý mọi người đã quyết. Ta chỉ có việc là đánh, đánh đến toàn thắng mới thôi. Không có sức mạnh nào có thể phá tan được khối đồng tâm vững như núi Thái-sơn của chúng ta được. Hỡi tướng-sĩ ! các ngươi đi đi, chúng ta không mấy lúc sẽ tấu khúc khả-hoàn vì chúng ta đoàn kết”.
Hồn nước không bao giờ tỉnh như thế. Trước làn sóng hung-mạnh của rợ Mông, cả nước Việt đứng lên, thành một con đê án-ngữ để bảo vệ núi sông, tôn miếu, ruộng nương, nhà cửa, và tất cả di sản thiêng-liêng của giống nòi từ nghìn xưa để lại. Đồng thời với cuộc tiến binh của Thoát-Hoan, tiếng giả nhời của các bô lão đã vọng ra ngoài biên-ải như một nhời cảnh cáo, hơn nữa, như một nhời đe dọa.
Người ta chỉ biết ca tụng cái chiến công oanh liệt là Bạch-Đằng. Nhưng không ai biết rằng trận Bạch đằng không lạ: mà hội nghị Diên-Hồng mới lạ, Bạch-Đằng chỉ là cái kết quả tất nhiên của cuộc hội nghị có tính cách hoàn toàn dân chủ kia.
Đã đành rằng sở dĩ ông cha ta đã thắng giặc Nguyên một cách vẻ vang một phần lớn là nhờ ở tài dùng binh, ở cơ mưu và ở gan bền tựa sắt của đức Trần-Hưng-Đạo cùng lòng tận trung báo quốc của các tướng sĩ. Nhưng cũng mạnh vò nhời đáp của các bô lão mà vua tôi phấn khởi, chiến sĩ nức lòng, nhân tài lũ lượt kéo ra, dân gian tranh nhau giúp sức quan quân, hoặc ra ủng hộ, hoặc tiếp tế lương; riêng sự ủng hộ về tinh thần cũng đã tốt đẹp lắm rồi, ta có cảm tưởng rằng cả nước lúc ấy tham dự chiến tranh, cả nước chỉ là một người. Dân đánh, là đánh cho họ chứ không phải đánh cho ai cả. Chưa bao giờ vua, triều đình, và dân gia lại hoà-hợp, thân mật với nhau như thế, chưa bao giờ tinh-thần quốc gia, tinh thần chủng tộc lại mạnh như thế. Cũng vì mối đồng tâm bất khả xâm phạm ấy mà mặc dầu quốc thế nguy như trứng chồng, mặc dầu sự phản bội của vài người tôn thất, ông cha ta đã giữ vững được giang sơn, để lại cho hậu thế một cái gương nỗ lực chung và một sức hi sinh chói lọi.
Hoặc có người bảo triệu các bô-lão là mánh khoé chính trị của họ Trần. Vua đã lợi dụng các bô-lão để yên lòng dân, để khuyến-khích tướng-sĩ liều chết mà bảo vệ ngôi báu. Có lẽ lắm, nhưng có hề chi, khi mánh khóe ấy gây được mối đồng-tâm và lòng quyết-chiến của cả một dân-tộc ?. Huống chi những bậc kinh quốc đại gia chỉ là những nhà chính trị khôn ngoan, có gì là đáng trách ?. Ta chỉ biết rằng vua tướng nhà Trần đã có cái sáng kiến tuyệt luân, cái sáng kiến ấy đã đưa đến khúc khải hoàn ở Hàm-tử, ở Chương-Dương, ở Tây-Kết, ở Bạch-Đằng mà sử xanh còn ghi mãi về muôn đời, nó còn cho ta một bài học đáng ngẫm nghĩ là trước sự đoàn kết của một dân tộc, dù là một dân tộc yếu hèn, thì mọi cuộc xâm lăng dù khôn khéo dữ dội đến đâu cũng thành ra vô hiệu.
NGUYỄN HUY TƯỞNG