Hỗn loạn và cơ hội lựa chọn
GREGORY COPLEY
Cách một xã hội tự hình thành như thế nào rất quan trọng. Mặc dù vậy, rất ít cá nhân tranh luận hoặc liên tục xem xét lại – chứ chưa nói đến việc cố gắng thay đổi – hình thức quản trị mà từ đó xã hội đã ra đời.
Họ chờ đợi xã hội của mình phát triển, trưởng thành, già đi, rồi sụp đổ. Một số xã hội sụp đổ trong thời kỳ tương đối non trẻ của mình do quản lý yếu kém, các mối đe dọa không thể địch nổi, hay các nguyên nhân khác. Một số kéo dài đến tuổi già xơ cứng.
Do nhiều xã hội trên toàn thế giới đều tiến triển đến cuối của chu kỳ tự nhiên, nên giờ đây có một cơ hội tuyệt vời để duyệt lại những gì chúng ta đang có và suy xét những gì chúng ta có thể đạt được.
Dường như không ai có thể xác định chính xác nguồn gốc của khái niệm ‘chính phủ tốt nhất là chính phủ cai quản ít nhất’. Người ta chấp nhận rộng rãi điều đó như một khái niệm, phần lớn là không chính thức, bởi vì có ít ví dụ về các xã hội thành công và có sức mạnh mà thực sự có rất ít hoặc không có cấu trúc chính phủ.
Các ví dụ về tình huống ngược lại chứng minh cho quy luật này: các xã hội có chính phủ can thiệp và ảnh hưởng sâu rộng thường hoạt động kém hiệu quả về các chỉ số kinh tế và xã hội. Khi sự thống trị của nhà nước tăng lên, thì hiệu quả kinh tế giảm, quyền tự do cá nhân bị hạn chế, và sức mạnh chiến lược sẽ suy giảm.
Chúng ta thấy các ví dụ lặp đi lặp lại về cách xã hội trải qua sự suy giảm trong tăng trưởng hoặc trong hiệu suất kinh tế như thế nào – đó hầu như là phản ứng trực tiếp trước việc gia tăng áp đặt các mức kiểm soát từ chính phủ và sự thống trị của nhà nước lên nền kinh tế xã hội của mình. Hoa Kỳ là một minh chứng rõ rệt về điều này. Năm 1865, bước ra từ một cuộc nội chiến có sức tàn phá lớn (hậu quả của cuộc chiến vẫn chưa được giải quyết hoàn toàn), và với ít nhất 620,000 người thiệt mạng do nguyên nhân trực tiếp là chiến tranh, Hoa Kỳ bắt tay vào một cuộc tái sinh kinh tế với rất ít quy định từ chính phủ.
Vào đầu thế kỷ 20, Hoa Kỳ đã trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, phần lớn là nhờ sự nổi lên một cách có hệ thống của các ông trùm công nghiệp thành công thời hậu chiến và các nhà tài phiệt.
Tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ sau đó đã bắt đầu giảm xuống mức buồn tẻ, tỷ lệ thuận trực tiếp với việc áp đặt các quy định và sự gia tăng trong khu vực do người đóng thuế tài trợ. Mô hình tương tự đã được lặp lại ở những nơi khác trên thế giới. Tăng trưởng kinh tế và quyền tự do cá nhân – những đối tác không thể thiếu – hầu như chỉ diễn ra ở các xã hội trước khi có sự áp đặt các quy định của chính phủ và, như thể để nhấn mạnh khái niệm này, chỉ xuất hiện lại khi chính phủ đôi khi rút lại các quy định (trong đó có các loại thuế).
Tuy nhiên, nói chung, chính phủ không tự cắt giảm quy mô và vị trí của chính mình trong nền kinh tế, và sự thống trị này chỉ có thể xảy ra với cái giá phải trả của người nộp thuế.
Các chính phủ sẽ không bao giờ sẵn sàng trả lại bất kỳ mức độ quyền lực nào cho cá nhân, cũng như giảm bớt gánh nặng cho người đóng thuế, trừ phi cử tri từ chối các chính trị gia có mức thuế cao tại hòm bỏ phiếu.
Giờ đây, điều được xem như một nguyên tắc là các chính phủ – để tài trợ cho sự phát triển về số lượng, quyền lực, và sự phân phối “phúc lợi” – đến một lúc nào đó phải tiêu hết nguồn lực của người đóng thuế và phải đi vay. Và một khi việc vay nợ đã bắt đầu, thì việc thay đổi, sử dụng các nguồn vốn từ thuế để trả nợ sẽ làm giảm khả năng của chính phủ trong việc phân phối phúc lợi: hối lộ cử tri. Vì vậy càng phải đi vay nhiều hơn.
Sau đó, chính phủ trở thành một chương trình Ponzi – một trò gian lận trong đó các nhà đầu tư ban đầu được hoàn trả từ tiền của các nhà đầu tư tương lai chứ không phải từ việc tạo ra của cải thực tế – chỉ duy trì được bằng khả năng in tiền để trả cho những khoản chi tiêu thâm hụt của họ. Nhưng việc tăng nguồn cung tiền gây ra lạm phát và làm mất uy tín cũng như niềm tin vào tiền tệ.
Đối với các nền kinh tế nhỏ hơn, tình huống này dẫn đến sự kết thúc trong ngắn hạn. Đối với các nền kinh tế lớn hơn với nhiều loại tiền tệ có thể giao dịch hơn, thì tình huống này đơn thuần là dẫn đến sự kết thúc vào một ngày xa hơn. Nhưng nền kinh tế càng lớn thì sự kết thúc càng đột ngột và dữ dội hơn.
Các quốc gia như Argentina, Nam Phi, và Trung Quốc đã đang loạng choạng nơi bờ của một vực thẳm như vậy. Nigeria và Ai Cập có thể cách đó không xa, cùng với Thổ Nhĩ Kỳ. Hoa Kỳ tiếp tục được bảo vệ vì Hoa Kỳ sở hữu và in được loại tiền tệ giao dịch phổ biến nhất trên thế giới. Tuy nhiên, sẽ đến một lúc – đang bắt đầu rồi – khi thương mại trở lại trạng thái song phương hơn và nhiều cơ chế khác hơn, bao gồm cả giao dịch hàng đổi hàng trực tiếp và giao dịch có yếu tố hàng đổi hàng nói chung. Đồng USD và đồng euro sẽ trở nên dễ bị tổn thương. Đức, pháo đài của đồng euro, cũng đang bước tới bờ vực.
Nhưng nợ có thể biến mất đối với các quốc gia cũng như đối với các cá nhân và tập đoàn. Ví dụ, lạm phát có thể làm giảm ý nghĩa giá trị của khoản nợ. Và có những hình thức phá sản dành cho các quốc gia nếu họ không thể giải quyết vấn đề của mình bằng cách nâng cao hiệu quả của chính phủ và kích thích nền kinh tế bằng cách giảm can thiệp và chi phối kinh tế. Hình thức phá sản quốc gia khả thi nhất xảy ra thông qua sự sụp đổ của quốc gia.
Vùng địa lý và con người vẫn còn, nhưng chính phủ ấy đã biến mất vào lịch sử và, cùng với nó là món nợ liên quan. Phần lớn [nợ] bị mất với sự thoái thác nợ quốc gia, thông qua sự sụp đổ của một quốc gia–chính phủ. Đối với Rome, vào cuối thời kỳ Đế chế, nó có nghĩa là một cuộc rút lui vào Thời kỳ Đen tối mà từ đó Ý, quốc gia kế vị, chưa bao giờ hồi phục. Trung Cộng tuyên bố là người kế thừa hợp pháp của vương triều Trung Quốc, nhưng họ không phải. Trung Cộng đã thoái thác món nợ của vương triều Trung Quốc. [Chính phủ dân quốc] Trung Quốc đã cố gắng trả khoản nợ của vương triều này cho đến khi những người cộng sản chiếm đoạt Trung Quốc đại lục vào năm 1949 – nhưng người dân Trung Quốc không ủng hộ đồng tiền cũng như uy tín của Trung Cộng, do đó tạo cho Trung Cộng một cấu trúc không ổn định.
Vậy nên, các xã hội xác định cách quản trị của chính mình như thế nào sẽ là chìa khóa cho tính hợp pháp và khả năng lựa chọn rủi ro cũng như tăng trưởng mà các xã hội này sẵn sàng chấp nhận. Các chính phủ tự tách ra khỏi người dân bị quản trị [thường] có xu hướng đặt ra những gánh nặng lớn hơn cho xã hội của họ, đẩy nhanh đến sự sụp đổ cuối cùng.
Quan điểm trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.
Ông Gregory Copley là chủ tịch của Hiệp hội Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế có trụ sở tại Hoa Thịnh Đốn. Sinh ra ở Úc, ông Copley là một Thành viên trong Order of Australia, là doanh nhân, nhà văn, cố vấn chính phủ, và biên tập viên xuất bản phẩm quốc phòng. Cuốn sách mới nhất của ông là “The New Total War of the 21st Century and The Trigger of the Fear Pandemic” (Cuộc Chiến Toàn Diện Mới của Thế Kỷ 21 và Sự Kích Hoạt Đại Dịch Sợ Hãi).