Huyền Trân Công Chúa – Truyện lịch sử bằng thơ I
Giòng Kinh-thủy thả bằng một giải,
Dãy Hiệp-sơn mải chạy ven bờ.
Rừng xa nét thẫm đề thơ,
Cánh buồm căng gió lặng lờ cuối sông.
Bến triều nước mênh mông sóng vỗ.
Một con thuyền nho-nhỏ nằm im.
Sớm mai sương xuống bóng chìm,
Một trời mây nước cánh chim xa vời.
Trông tựa bóng tháp Hời đây đó,
Đứng mấy lò gạch bỏ tử lâu.
Êm êm đường đất vó câu
Nện đều, một bóng lam-bào từ xa.
Lỏng tay khấu, ngăn-ngơ tuấn mã,
Khách đứng trông sóng cả cồn reo.
Chùa đâu buông tiếng chuông chiều:
Vầng đông hửng sáng nhuộm đào non sông.
Long hửng sáng bùng-bùng lửa cháy,
Mắt đăm đăm trông dãy Trường-Sơn.
Lòng mơ theo bóng Tràng-an,
Rừng cờ theo ngọn gió đàn đua bay.
Hồn tráng-sĩ mềm sau danh-vọng,
Đem tài-năng đắp móng vinh quang
Anh-hào tỏ mặt, thi gan,
Cho đời biết mặt, giang-san biết người.
Trí hăng-hái đang sôi sùng-sục
Mà con thuyền vẫn buộc bên sông !
Vòng tay, sang-sảng tiếng đồng
Hô to gọi lái: đò không bóng người.
Võ trường mở còn hai ngày nữa,
Không lẽ đành bỏ lỡ tương-lai.
Phùng mang lên tiếng hét dài,
Bên sông thuyền vẫn bỏ lơi mái chèo !
Lòng cộn sóng nước trào trôi xiết,
Nước mênh-mang nguồn tiết anh-hùng.
Sầu lây đến cả ngựa hồng,
Chồn chân đập vó, nhạc rung tiếng buồn,
Sông lớp lớp từng nguồn sóng mới,
Giòng thời gian có đợi đâu người !
Nhất khứ hề bất phục hồi !
Thét vang một tiếng ra roi ngựa hồng.
Con tuấn-mã đạp tung sóng bạc,
Bốn vó phi như bắc cầu qua.
Mắt chàng như bắn lửa ra,
Đem gan độ với phong-ba một liều.
Đây lần đầu bến Triều được thấy
Ngựa và người vùng-vẫy qua sông.
Khải-hoàn rung tiếng nhạc đồng,
Một đi tráng-sĩ quyết không trở về.
Thề với bến danh ghi bảng hổ,
Cho quê-hương trông tỏ mặt trai.
Con đường đất đỏ chạy dài,
Non xanh trùng-điệp tuyệt vời bóng câu.
Non xanh xanh, sông sâu lặng-lẽ,
Bến đìu hiu nhớ kẻ giang-hồ.
Lòng sông ngân tiếng chuông chùa,
Mặt sông vắng bóng người xưa vẫy-vùng…
Nước triều xuống, người không thấy lại,
Quên quê-hương người mải công-danh.
Đời ai trong bước phiêu linh,
Để cô thôn-nữ buồn tênh giọng hò !…
Một chiều muộn, con đò đưa lại
Tin Khắc-Trung danh nổi kinh-thành,
Chi-huy muôn đội hùng binh,
Thiếu-niên danh-tướng, bình-sinh thỏa lòng.
Đâu những buổi chiến-công rực-rỡ,
Đâu những đêm tiệc mở hoa-đăng ?
Nơi đâu buồn giãi bóng trăng,
Đò ngang cô lái nhặt khoan mái chèo.
Sớm lại hôm, chuông triêu, chuông mộ,
Vang-vẳng buồn tiếng mõ cầm canh.
Chùa Tràng lối nhỏ quanh-quanh,
Rêu Phong vẽ cảnh thanh-bình muôn thu.
Chợt sớm nay người nô-nức tới,
Tiếng chuông chùa mang dội không-gian.
Mừng reo sang-sảng tiếng vàng,
Có đôi vương-giả thiều hương trong chùa.
Rằng: đêm qua bãi mờ trăng giãi,
Con thuyền rồng bắt lái khoan-khoan;
Em-êm giọng sáo, giọng đàn,
Võng đào lững-thững, nhạc vàng rung-rung.
Tre vươn ngọn để trông phò-mã
Trần Khắc-Chung tay đỡ Huyền Trang
Song-song đôi lứa Châu, Trần,
Võ-trang sành với giai-nhân tuyệt vời !
Nên sớm nay đàn trai đặt lễ,
Cầu: trăn năm bóng xế bạc đầu.
Bùi-ngùi nghĩ chuyện xưa sau,
Bàn tay định-mệnh dễ hầu đổi thay !
Trong tâm cảnh nào ai có rõ,
Bước … mấy độ lênh-đênh ?
Một mình mình biết cho mình,
Lên đồi cao, ngắm mông-mênh nước trời,
Chốn phật-đài lệ rơi thánh-thót,
Công-chúa buồn khóc cuộc hưng-vong
Hạt mưa sa cõi bụi hồng,
Vào nơi quyền quý thảm-cung làm gì !
Sao cảng năm trong thi thơ-ấu,
Nao phụ hoàng, mẫu-hậu nâng-niu.
Cành vàng, lá ngọc chăm-chiều,
Gấm phong đã biết thương yêu là gì !
Vui xe loan, chiều kia quá bước
Đến dâng hoa Trấn-quốc Lãng-hồ.
Trời êm như một trời mơ,
Hồ êm như tấm gương mờ mênh-mang
Bỗng vẳng tiếng nhạc vàng đâu tới,
Bóng ngựa hồng lướt dưới ngàn cây.
Trời hồng như một trời say,
Người dùng vó ngựa, vòng tay nghiêng chào
Đường-đường khách phong-lưu mã-thượng
Trông võ-trang mà dáng văn-nhân,
Để lòng công-chúa băn-khoăn,
Màn đào vội bỏ, xe loan vội dời..
Trời phật có chiều người chăng nhẽ,
Mộng trăm năm đợi kẻ anh-hùng…
Lòng ơi có biết cho lòng,
Hoàng-hồn thu nhuộm rừng phong úa vàng !
Trên các phượng cầm trăng hờ-hững
Xuống lại lên lững-thững huê-viên.
Bâng-khuâng lần gót hài-văn,
Ngâm câu khuê-oán, cung nhân khác nào !
Biết đâu kẻ chân lầu thơ-thẩn,
Trông hoa leo quanh-quẩn lầu trang.
Thâm-khuê cửa đóng mấy tầng,
Thở dài: gang tấc quan-san mịt-mùng !
Rậu tầm-xuân nở hồng, ai khéo
Bắc giây hoa uốn-éo song lầu.
Tình yêu so với thành cao,
Chẳng như hoa được lọt vào buồng hương
Trong trướng gấm tơ vương nhiều nỗi,
Ngoài đại-doanh khắc-khoải anh-hùng.
Chút chi đeo đẳng má hồng,
Bây lâu nên tiếng võ công danh-thần,
Há chẳng vị giai-nhân tuyệt thế
Cái danh hờ chẳng kể mai sau.
Hỏi người kim-khuyết ngọc-lâu,
Đài gương biết có treo cao gia vàng ?
Tay Nguyệt-lão phũ-phàng chi hỡi,
Chưa se tơ đã vội chia duyên !
Đơn ai thức giấc sâu miên,
Vắng tri-âm tưởng mấy phen đập đàn.
Tin đâu đến bình tan, gương vỡ,
Thuở trăng rằm, hoa nở, ai xui !.
Trăng tròn, hoa giữa thời tươi,
Giữa mùa xuân thắm, đầy trời gió mưa,
Mảnh hoa-tiên tâm-thơ chứa chép,
Tờ hôn-thư sứ-điệp ai mang ?
Ngàn-trùng khe-khắt Chế-Mân
Đem châu Ô, Lý mà dâng dưới thềm !
Đất Nam-Việt lặng êm bờ-cõi,
Lũ dân Hời định nồi phong ba.
Đổi giang-sơn lấy đàn bà,
Trách người ở chốn non xa chi tình !
(Còn nữa)
NGUYỄN ĐAN TÂM