Huyền Trân Công Chúa – Truyện lịch sử bằng thơ III
Tiếp theo của phần II
Lại ban quốc-tính họ Trần, (1)
Bến Triều mây gió một lần bay cao !
Thuyền rồng vươn mái chèo gạt sóng,
Điêu sinh ca đồng vọng non xanh.
Thao-thao dòng nước sông Kinh,
Phù-sa soi bóng cá kình năm xưa.
Trên cành tre, thước đưa tin mách,
Dịp đá xanh ngang lạch suối trong.
Khoan-thai nhấc vó ngựa hồng,
Lúa reo, dìu-dịu hương nồng thoảng bay…
Mỗi sớm mai như say ánh sáng,
Cả đồng quê rung tiếng nhạc phi.
Vó câu đan bóng ngàn tre,
Anh-hùng lướt gió, con đê chạy dài.
Đôi cò trắng tung đôi cánh trắng,
Mây hồng vương bảng-lảng non Yên.
Ai đem nét bút thần-tiên
Tô màu son phấn lên trên lúa vàng !
Mầm đất dậy, xốn xang ngọn cỏ,
Mạch nước lên, sóng đỏ tràn dâng.
Ngắm trông giải đất Hà-tràng,
Thấp cao trùng điệp, thênh-thang cõi bờ.
Dẫy Hiệp-sơn cánh là phượng đậu,
Giòng Kinh-giang uốn-éo rồng bay.
Non sông gấm vóc nào tầy,
Phải chăng là để đợi tay anh-hùng?
Lòng sông nọ sâu, nông ai biết,
Núi đo sao chí quyết hồn trai !
Cười lên một tiếng vang trời :
Thành xây, luỹ đắp, hào soi, thuyền bày.
Quân thuỷ-chiến quen tay huấn-luyện,
Đoàn bộ binh cung, tiến, lược thao ?
Ngọn cờ ai dựng đài cao,
Ba quân rộn-rã, tiệc khao, trống rền ?
Tài trí ấy đã nên danh-vọng,
Ai ngờ đâu huyền-mộng cao-xa !
Ngai vàng đường bệ vua cha,
Chẳng phò tận hiếu, chẳng thờ tận trung.
Còn mong chiếm cứ nhất hùng…
Thâm-khuê công-chúa cực lòng nỉ-non :
“Xin cho vẹn đạo thần-hôn,
Mệnh trời nào tựa lòng con vô-nghì !”
Trượng-phu vẫn gan lì sắt đá,
Lau lệ nàng, ha hả cười vang :
“Khanh ơi đừng tưởng ngai vàng
Dưới trời là chuyện khó khăn nhọc lòng !
Có những kẻ tài không, trí rỗng,
Gió tình-cờ đưa bổng mây cao.
Đã mang lấy tiếng anh-hào,
Khanh ơi, phú qúi ta nào màng chi.
Đời ta đã bỏ đi mấy bận,
Chỉ vì khanh lận-đận chưa xong.
Đang tay nâng chiếc ngai rồng
Là toan mời…Hậu ngồi trong ngôi trời.”
Nhưng ngôi trời phải nơi địa-vị
Của Huyền-Trân ngự trị muôn dân ?
Mấy người nhân định thắng thiên,
Mấy người tài cả mà nghiêng nổi trời !
Tin xao-động đến tai Hoàng-phụ,
Cáo lộng hành đã có sớ tâu.
Phái binh thẳng tới bến Triều,
Ngự-lâm-quân đã đóng đầu sông kia.
Tiếng quân hò đêm khuya vang dội.
Lòng Khắc-Chung như sủi nước reo.
Một toan chống với ba đào,
Nhưng Huyền-Trân suối lệ dào như mưa !
Lệ nhi-nữ nhỏ sa từng giọt,
Lòng anh-hùng từng phút thấm đau !
Đành trong giữa khoảng đêm sâu,
Cá kình vượt sóng, sông sầu rẽ đôi.
Lén ba quân, người bơi về tận
Cảnh Hang Son, quyết lẩn vào cung.
Trộm pho tượng Phật, tay bồng,
Một tay vùng vẫy theo dòng nước xuôi.
Bao cờ quạt thả trôi theo sóng,
Bao nhung-y chất đống hoả thiêu,
Kiếm cung, dao kéo gọt đầu
Ba quân phút chốc nhuộm màu chư tăng,
Rồi mõ đâu đã văng-vẳng tiếng,
Một đại doanh phút biến am thiền.
Vua cha rất đỗi ngạc nhiên,
Rằng : “Con đã chán trần-duyên những ngày.
Sớm khuya lòng đã say tiếng kệ,
Cầu song thân thánh-thể an khang.
Ơn vua đeo quả ấn vàng,
Móc mưa đã đủ , cúi dâng trả người…”
Ngọn Bạch-lạp đêm dài hiu-hắt,
Tay lần đưa chuỗi hạt trân-châu,
Toà sen cao chín từng cao,
Mắt nhìn hương cuốn, miệng cầu lâm-râm.
Chén trà-thang thanh tâm nhấp giọng,
Lời nam-vô trầm bổng canh khuya.
Xưa sao gấm vóc lụa là,
Giờ sao áo vải nâu già năm thân !
Vẻ ngọc vẫn trắng ngần trong giá,
Nét đơn-sơ một đoá khoe tươi.
Gió xuân phong kín nụ cười,
Giữa vườn hoang-dã một trời hương bay !
Nhan-sắc nọ từ nơi thượng-uyển,
Nước cành dương đã bén nhị tơ.
Lửa duyên tắt tự bao giờ,
Đường đời gai-góc, gió mưa, cát lầm…
Bờ chính-giác, chân-tâm bát-nhã
Vằng-vặc soi trùm cả thinh-không…
Phù-sinh sắc sắc, không không !
Tu trì hun-đúc cố công một niềm.
Đêm ấy, bến Triều im-lặng gió,
Lần trăng suông dịp mõ gieo khuya.
Tre già mấy ngọn đu đưa,
Êm-êm vẫn tiếng sư bà tụng kinh.
Trời rộng mở, không-thanh nhè-nhẹ,
Mây mờ bay lẻ-tẻ sao im,
Loanh-quanh đèo cát, dặm ngàn,
Hành nhân có kẻ bước chân ven đồi.
Gậy-trúc hoá khoan-thai lần chống,
Màu nâu sồng vẽ bóng thiền-gia.
Trán cao in ánh trăng ngà,
Mắt xanh sầu thẳm nhìn xa cuối trời.
Bỗng cất tiếng thở dài, ngẩng mặt
Nhìn lên cao cao ngất từng mây.
Đại-bằng giam trái đất này,
Chẳng cho đôi cánh tung bay tột vời !
Buộc trí lớn vào nơi trần-thế,
Vẽ chi vòng hệ-lụy đa đoan.
Vẫy vùng trong cõi doanh-hoàn,
Quyền nghiêng thiên-hạ còn toan nghiêng trời.
Bao thành bại đã vơi hồ lệ,
Gọi thiên-công hỏi lẽ huyền-vi.
Non xanh kia vẫn xanh rì,
Nước tuôn trắng rẫy nước đi không về.
Tìm dưới gốc bồ-đề tĩnh tọa,
Theo Như-lai Phật -tổ định-thân.
Trần-gian khổ -ải, mê tân,
Sao cho giải thoát nghiệp căn nặng-nề !
Nhưng nơi đây bồ-đề chẳng có,
Đồi trơ-vơ đầy cỏ thanh-hao…
Nặng muôn vọng-tưởng trần-lao,
Sông Ngân hồ dễ bắc cầu cho qua.
Ngoài vũ-trụ bao-la tinh-tú,
Hãy cho người tạm trú lòng đau.
Dừng chân, ôm gối bên đèo,
Lắng nghe nhịp suối Ngà reo bạt ngàn,
Lòng lắng theo không-gian vời-vợi,
Hồn cô-đơn lạc lối mây xa…
Vẳng đưa vẫn giọng sư bà,
Thanh-thanh tiếng kiểng đan thưa tiếng chầy
Tre lả ngọn, bóng gầy xơ-xác,
Rặng cổ-thành hiu-hắt gió đưa,
Thành xưa đã vắng bóng cờ,
Kêu sương tiếng vạc bay qua bãi lầy…
(Hết)
NGUYỄN ĐAN – TÂM