IM LẶNG PHẢI CHĂNG LÀ VÀNG ?
Làm nhà văn, nhà báo, ai cũng có một trách nhậm về tinh – thần. Mỗi khi viết một bài văn hoặc một cuốn sách, dầu ký tên hay đề biệt – hiệu, chúng ta phải hoàn toàn chịu – đựng những lời chỉ trích chính đáng. Phải hết sức bênh vực những điều ta nói nếu thấy không ngoài sự-thực và hợp lẽ phải.
Vì danh dự ngòi bút, chúng ta phải lan mình vào cuộc bút chiến, không sợ những mũi tên cứ nhắm ta làm đích, cũng như những lính cảm – tử xả thân nơi chiến địa, để bênh vực cho những lý tưởng cao xa !
Những câu văn ta đã viết, những ý ta đã trình bày, những tài 1iệu ta đã tốn công sưu tầm: đó là những chất óc ta đã kết tinh lại; đó là cả một linh hồn ta. Ai phạm tới ? Ta phải dõng-dạc trả lời: “Tôi đây”
Tôi cũng công nhận trong số những nhà cầm bút ở nước ta có phiền người đã từng thành-thực, sốt-sắng bênh vực ngòi bút minh bằng những lý-cớ vững-chắc.
Đây, một vài cuộc bút chiến về văn-chương tư-tưởng có thể ghi vào lịch-sử báo giới, văn giới nước nhà:
Cuộc bút chiến về vấn đề Nho giáo giữa ông Lệ thần Trần Trọng Kim và ông Phan Khôi trong Phụ nữ tân văn (Saigon 1930) ;
Cuộc bút chiều về lối văn Hoàng Tích Chu giữa ông chủ nhậm báo Đông Tây với ông Thục Điền trong Đông Phương;
Cuộc bút chiến về vấn đề quốc học của ông Lê Dư với phái địch.
Mặc dầu trong khi tranh luận họ đã có khi có những ý thiên vị, nhưng cũng vì sự Họ chịu tranh luận đó mà độc giả tìm được nhiều hứng thú và thấy rõ đâu là lẽ phải. Chính những cuộc bút chiến đó đã có ích cho tư tưởng giới nước nhà vì nó đã phá tan những sự dụt dè e lệ của một số nhà văn không chịu phơi mình ra ánh sáng và không đủ can đảm chịu trách nhậm trước dư luận của quốc dân.
?
“Đầu tiên” im lặng trước dư luận là ai ? Thoạt tiên là những “nhà nho học” (chữ của ông Phan Khôi) sau thời kỳ có cuộc Bảo-hộ ở đây, sau khi trường thi Nam bãi bỏ và giữa lúc tư tưởng giới Việt Nam bắt đầu phối hợp với “cô” Logique của người Âu.
Những nhà nào đó mặc bỏ những Thánh, Hiền mà xưa họ đã nặng lời ca tụng. Vâng, họ mặc bỏ, tôi không nói ngoa, Chẳng mặc bỏ, sao trước 24 bài của ông Phan Khôi bài xích Nho giáo đăng trong báo Thần Chung ở Saigon (1929), không ai lên tiếng phản đối ? Trong bài cuối ông Phan Khôi đã thú thật và áy náy
– “Không dám đối độc giả, tội biết đến đây bỗng dưng hai hàng nước mắt tôi trào ra trên giấy. Không phải tốt khóc vì Khổng giáo điều tàn, nhưng tôi khóc một là vì cái kẻ chỉ trích Khổng giáo lại là tôi, hai là vì ngó thấy cái tình đời bạc bẽo”
Chẳng những chỉ trích Khổng giáo, mà trên hai tờ Phụ Nữ, Trung Lập, ông Phan Khôi còn phản đối cả thuyết tam cang, đả phá cả chế độ đại gia đình nữa. Trong Đông Tây Tuần Báo ông lại bài xích cái học của Tống nho.
Đó là những điều đáng lẽ những ai đã tự mệnh là tin đồ trung tín của đạo Nho phải lên tiếng về đạo và cãi lẽ với ông Phan Khôi mới phải. Nhưng không, không một nhà nhỏ nào lên tiếng, mặc cho ông Phan muốn nói gì thì nói. Nói chán, ông phải thất vọng, than phiền mà gác bút. Thật là một trạng thái tinh thần kỳ quặc !
Tôi nhắc những việc cũ ấy ở đây là cột tìm những cái có ảnh hưởng tai hại với học thuật tư tưởng nước nhà đề mong cùng nhau tìm cách tránh đi, chứ tuyệt không có ý gì khác.
?
Ngoài lớp người cũ, một số nhà văn, nhà báo hiện thời cũng lây phải cái bệnh chuyên chế dư luận và khinh mạn độc giả. Họ viết báo ra sách, Ai công kích ? mặc ! Tuồng như sự công kích đó không can thiệp gì tới họ. Im lặng đó phải chăng là vàng, hay chỉ thiệt cho độc giả, những người muốn tìm chân lý đề rõ thực hư ?
Thật khó hiểu, mỗi khi ta thấy một nhà văn bị công kích cách chính đáng mà không thấy họ trả lời ! Không phải nói đâu xa, tôi lấy vài thí dụ gần đây để chứng cho lời đó.
Trong tuần báo Chủ Nhật số 4 (11-1940), ông Khái Hưng có bàn về vấn đề cải cách chữ quốc ngữ, có nhắc đến lịch sử của nó trong hai đoạn. Ông cho rằng chữ quốc ngữ do các giáo sư Bồ Đào Nha đã sáng tạo ra vì họ sang truyền đạo ở nước ta trước nhất. Nhưng không đồng ý kiến đó, ông Nhân Nghĩa, trong Trung Bắc chủ nhật số 41 (1940), dùng hết tài liệu đã kê cứu chắc chắn, lên tiếng phản đối. Độc giả, cũng như tôi, đợi mãi bài trả lời của ông Khái Hưng, nhưng ngày lại ngày, chờ mà chẳng thấy ! (1)
Tài trào phúng của thơ Tú Xương ? Nhiều người đã phải thánh phục. Vừa rồi, trong Nghệ thuật Việt Nam số 1 (1941), ông Lê Đại (phải chăng là một tên giả của ông Lê Tràng Kiều ?), đã muốn xóa bỏ cái tên Tú Xương ra khỏi cuốn Việt Nam văn học sử có kêu: Những thơ văn của Tú Xương chỉ là một mở nhảm nhí và sự nghiệp của ông chỉ đảng một con “Zero”. Sau khi đọc bài đó, tôi đinh ninh thể nào các thi gia cùng các văn phản cũng ùa nhau vì sự nghiệp và danh dự người xưa mà lên tiếng. Tôi tin tưởng rằng ông Trần Thanh Mai, tác giả cuốn Trông giòng sông Vị, các nhà giáo ở thành Nam đã tổ chức cuộc nói chuyện kỷ niệm ông Tú và một nhà báo đã từng nặng lời ca tụng thi sĩ đó trên Đông Tây tuần báo năm nọ thế nào cũng lên tiếng cãi lại. Nhưng tịnh không thấy một ai, ngoài ông Thông Reo chế riễu việc đó trên tờ Dân báo ở Saigon và ông Thiết Can cười cợt mỉa mai trên tờ Hà Nội tân văn. Có lẽ lấy cớ rằng bài báo đó có tính cách quảng cáo, nên làng thơ Việt Nam dè dặt chăng ?. Song tôi tưởng sự im lìm đó không chính đáng, vì dầu sao, ta cũng phải bác bỏ những điều tầm bậy hại tới người xưa.
Nhóm Tự Lực và đoàn cũng không tránh khỏi cái lỗi đã thờ ơ với dư luận mỗi khi bị công kích. Tôi cũng công nhận thỉnh thoảng, phải thỉnh thoảng thôi, nhóm đó cũng có trả lời những người công kích mình. Nhưng đối với những người như các ông Trương Tửu, Lê Văn Trường đã nhiều làm công khai chỉ trích một cách kịch liệt và ác nghiệt những tác phẩm chính của Tự Lực Văn Đoàn trên các báo Ích Hữa (1937), Quốc Gia (1938), thì nhóm đó lại làm lơ !
Tỏi rất tiếc sao trước tòa án dư luận của đồng bào, Nhóm Tự Lực không lên tiếng bênh vực để phân học bạch? Nhóm Tự Lực im đi phải chăng là một mánh khóe của nhà nghề bay là dấu hiệu của sự khinh nhờn những địch thủ ?. Vì lẽ trên, sự im lặng đó là một cuộc đắc thắng riêng nhưng là một sự thiệt thòi lớn cho độc giả ở ba kỳ: đã lỡ mất một cơ hội để nhận xét rõ thêm những khuynh hướng về văn chương và xã hội của những văn nhân trên đường Quán Thánh. Như vì lẽ dưới thì sự i’m lặng đó không chính đáng vì đã cùng nhau làm tôi bà Chúa Báo và đã cùng đi trên con đường nghệ thuật, ai lại hớ gì mà khinh người đồng nghiệp ?
Chẳng những một nhà văn, hay một nhóm bị công kích cũng im lìm đi, mà cả đến từng lớp nhà văn một bị kết án cũng làm thinh nốt.
Độc giả ai đã đọc cuốn Mùa gặt mời số 1, cũng biết ông Trương Tửu đã mạt sát cái “thế hệ nhà văn 1930” mà ông gọi gồm là một thế hệ truy lạc! Ông đã cả tiếng nói rằng những nhà văn đó đã tìm cảm giác lạ ở các trạng thái trụy lạc, ông nhiếc “họ đã lăn lóc miệt mài ở các nhà hành lạc, đã say mê điện đảo trong tình yêu lãng mạn,đã giết thời giờ và sức khỏe vào chiếc đèn dầu lạc”
Thật là những lời buộc tội ác nghiệt đối với loại nhà văn 1930 !
Thế mà không một ai trong nhà văn loại đó, vì danh dự mình, vì danh dự của những người đồng thời, lên tiếng trả lời họ Trương.
Tôi lấy làm lạ hết sức về cái thái độ thản nhiên làm lơ đó (2). Phải chăng nó là ảnh hưởng của những nhà văn mà tôi đã nêu trên đầu bài ?. Phải chăng nó biểu hiện sự nhu nhược của phần đông nhà văn chúng ta ?.
?
Bị công kích một cách chính đáng mà không lên tiếng đáp lại, thì thà gác quách quản bút đi thôi. Viết nữa làm chi, nếu mình không chịu trách nhậm ngòi bút mình ?
Trên khoảng dừng bút, tôi cầu thanh minh cùng độc giả: những nhà văn mà tôi nói trên kia phần nhiều là những nhà văn mà tôi vẫn hằng có cảm tình, một thứ cảm tình mà tác phẩm của họ là môi giới.
Tôi thành thật viết vì tư tưởng giới nước nhà, vì sự ham tìm lẽ phải. Mong rằng sự thờ ơ của những nhà văn đối với ngòi bút mình từ này không còn nữa.
PHẠM MẠNH PHAN
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
(1) Ông Khái Hưng chẳng những làm thinh trong việc này, lại còn im lặng trước những vấn đề mà bạn Hoa Bằng đã tỏ ý dị đồng với hoặc lên tiếng tranh luận cùng như : “Vấn đề của đại danh từ”. (Coi Ngày Nay số 187, 188; Nước Nam số 45, 46) và “Sử liệu văn học không phải câu chuyện tiểu thuyết” (Coi Nước Nam số 86 ; Chủ Nhật Tuần Báo số 1).