Kế hoạch ngầm của Trung Cộng đằng sau ‘cuộc họp Biden–Tập’ sắp tới
Jon Sun và Michael Zhuang
Tòa Bạch Ốc loan báo rằng Tổng thống (TT) Joe Biden sẽ gặp lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình trong thời gian diễn ra diễn đàn APEC ở San Francisco vào tháng Mười Một này. Chuyến công du tới Hoa Kỳ của ông Tập lần này được xem là một toan tính nhằm sử dụng Hoa Kỳ để giải vây cho Trung Quốc – trong thời điểm nước này phải đối mặt với nền kinh tế nội địa đầy bất ổn và các mối bang giao quốc tế căng thẳng.
Hiện tại, Đảng Cộng sản Trung Quốc (Trung Cộng) đang phải đối mặt với một loạt thách thức trong nước, từ một thị trường địa ốc với rủi ro rình rập đến tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Ông Tập cũng đang tiến hành một đợt thanh trừng các cấp lãnh đạo cao nhất trong quân đội Trung Quốc do tham nhũng và tranh giành quyền lực nội bộ.
Trên bình diện quốc tế, các nước phương Tây đang gióng lên hồi chuông cảnh báo về các chính sách bành trướng của Trung Cộng. Chính quyền Trung Quốc đang tìm cách xuất cảng hệ tư tưởng độc tài, mưu toan kiểm soát cơ sở hạ tầng quan trọng trên khắp thế giới qua “Sáng kiến Vành đai và Con đường” của họ. Trung Quốc đang ngày càng tăng cường sự đe dọa đối với an ninh khu vực ở Biển Đông và Eo biển Đài Loan, đồng thời họ còn thiết lập các liên minh bất chính với Bắc Hàn, Iran, và Nga. Điều này đã dẫn đến một làn sóng các quốc gia phương Tây ban hành các biện pháp hạn chế liên quan đến xuất cảng công nghệ cao và chất bán dẫn sang Trung Quốc.
Năm 2022, báo cáo Chiến lược Quốc phòng của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã xác định Trung Quốc là đối thủ chiến lược lớn nhất của Hoa Kỳ. Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin đã cho biết Trung Quốc là địch thủ duy nhất vừa có ý định thay đổi trật tự quốc tế vừa có sức mạnh ngày càng tăng để thực hiện ý đồ này.
Trước những thách thức đó, ông Tập biết rằng cách duy nhất để giảm bớt áp lực là có mối bang giao tốt đẹp với Hoa Kỳ. Trong lịch sử của Trung Cộng, Hoa Kỳ đã “giúp đỡ” Trung Cộng giải quyết một số cuộc khủng hoảng lớn.
Đã nhiều lần tìm kiếm sự giúp đỡ từ Hoa Kỳ
Trung Cộng đã cầu viện Hoa Kỳ nhiều lần trong lịch sử của mình. Trước Cách mạng Cộng sản ở Trung Quốc, Trung Cộng là một thế lực nổi dậy còn yếu ớt, họ đã hết lòng ca ngợi Hoa Kỳ, rồi còn tỏ ra ưu ái Hoa Kỳ với mục đích tạo ra một cảm giác sai rằng Trung Cộng là một thể chế đại diện cho người dân và cũng đại diện cho nền dân chủ. Điều này dẫn đến việc lúc đó Hoa Kỳ không còn giúp đỡ chính phủ Trung Hoa Dân quốc.
Sau khi lực lượng cộng sản lên thâu đoạt chính quyền, Trung Cộng ngay lập tức giở bộ mặt thù địch với Hoa Kỳ, tuyên bố rằng họ muốn “đánh bại chủ nghĩa đế quốc Mỹ”. Năm 1950, Hoa Kỳ chấm dứt hợp tác thương mại với Trung Quốc, áp đặt một lệnh cấm vận toàn diện, và kêu gọi các đồng minh của mình làm theo.
Trong Chiến tranh Triều Tiên những năm 1950, Trung Cộng đã cảm nhận rõ được sức mạnh quân sự của Mỹ và cũng biết về các thỏa thuận an ninh của Hoa Kỳ với các quốc gia lân bang của họ như Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, và Úc – mà những yếu tố đó đều được xem là mối đe dọa đối với Trung Quốc. Vì vậy Trung Cộng không dám đánh giá thấp Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sau sự thất bại của nền kinh tế kế hoạch và cuộc Đại Cách mạng Văn hóa đầy bạo lực, nền kinh tế Trung Quốc về căn bản đã không còn giá trị gì nữa, và mối bang giao với Liên Xô cũng trở nên căng thẳng theo. Vào thời điểm đó, nhà độc tài Trung Quốc Mao Trạch Đông cảm thấy rằng ông thật sự rất cần sự trợ giúp từ bên ngoài để thoát khỏi cuộc khủng hoảng này.
Tháng 07/1971, Hoa Kỳ cử ông Henry Kissinger tới Bắc Kinh để sát cánh cùng Trung Quốc chống lại Liên Xô, lúc đó là siêu cường cộng sản. Những cuộc trao đổi ngoại giao giữa hai nước bắt đầu từ đó. Hoa Kỳ tìm kiếm liên hệ ngoại giao với Trung Cộng dựa trên niềm tin rằng thông qua thương mại và đầu tư, Trung Quốc sẽ hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và dần trở thành một phần của thế giới tự do. Điều này phù hợp với các giá trị và lợi ích của Hoa Kỳ. Mối bang giao được cải thiện giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc là nước cờ giải vây tuyệt vời cho nhà độc tài Trung Quốc, và chính điều đó đã giúp Trung Quốc giải quyết cuộc khủng hoảng trong nước của mình.
Đầu những năm 1980, Hoa Kỳ đã bán radar, trực thăng, thiết bị giám sát điện tử tân tiến, cũng như các loại máy điện toán có phần mềm quân sự tân tiến cho Trung Quốc, giúp quân đội Trung Quốc hiện đại hơn rất nhiều.
Một sự kiện bước ngoặt đã xảy ra vào ngày 04/06/1989, đó là việc Trung Cộng đàn áp các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ và tiến hành vụ Thảm sát Thiên An Môn. Thế giới vô cùng chấn động trước sự tàn bạo của Trung Cộng, và điều này đã dẫn đến một số lệnh trừng phạt của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc. Hoạt động trao đổi cấp lãnh đạo giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đi vào ngõ cụt, với việc cộng đồng quốc tế hiệp lực trừng phạt Trung Quốc. Chế độ Trung Quốc một lần nữa rơi vào khủng hoảng.
Sau năm 1989, Hoa Kỳ đưa ra lập trường chỉ trích Trung Quốc về các vấn đề an ninh và nhân quyền trong khu vực. Khi Liên Xô sụp đổ cùng với chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu thì liên minh chiến lược của Hoa Kỳ với Trung Quốc chống lại Liên Xô cũng không còn tồn tại nữa.
Tuy nhiên, ngay sau năm 1989, cố TT George Bush Sr. đã dần khôi phục lại mối bang giao với Trung Quốc. Đây được xem là một sai lầm lớn trong chính sách ngoại giao của Mỹ vì quyết định này trên thực tế là đã mở đường cho Trung Cộng thực hiện mục đích của mình. Theo một cách nào đó, điều này đã trao cho nhà cầm quyền Trung Quốc thêm sức mạnh để duy trì quyền lực cho đến ngày nay.
Cựu Phó TT Hoa Kỳ Mike Pence cho rằng sau khi Liên Xô sụp đổ, Hoa Kỳ vẫn tin tưởng rằng đến một ngày nào đó Trung Quốc sẽ trở thành một quốc gia tự do, và đó là một kết quả tất yếu. Với suy nghĩ lạc quan đó, Hoa Kỳ đã hoan nghênh Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001.
Ông Tập Cận Bình tìm ‘phao cứu sinh’ từ Hoa Kỳ trong thời kỳ khủng hoảng
Nhà văn độc lập kiêm cộng tác viên người Hoa Gia Cát Minh Dương cho biết: “Việc Trung Cộng và ông Tập Cận Bình cuối cùng sẽ sụp đổ là điều không thể tránh khỏi. Hoa Kỳ và thế giới phương Tây ngày na y rất cảnh giác với Trung Cộng, và họ sẽ không cho phép Trung Cộng làm bất cứ điều gì họ muốn về mặt chính trị, kinh tế, và quân sự.”
Mới đây, Lãnh đạo Thiểu số Thượng viện Hoa Kỳ Mitch McConnell đã gọi Trung Quốc, Nga, và Iran là một “trục ma quỷ mới” mà Hoa Kỳ phải đối phó. Ông xem Chiến tranh Nga–Ukraine và Chiến tranh Israel–Hamas là nền tảng cho cuộc tranh đấu giữa trục ma quỷ mới này với Hoa Kỳ và các đồng minh của nước này.
Trong hội nghị thượng đỉnh về Sáng kiến Vành đai và Con đường vừa mới kết thúc, lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đã nói với TT Nga Vladimir Putin rằng Trung Quốc và Nga nên hợp tác cùng nhau để “bảo vệ hòa bình và chính nghĩa trên thế giới.” Trong chuyến thăm Nga trước đó, ông Tập cũng nói với ông Putin rằng họ nên cùng hiệp lực để đối mặt với “những thay đổi chưa từng thấy trong một trăm năm qua.” Ông Putin tán dương ông Tập là “một trong những nhà lãnh đạo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới.”
Kể từ khi bắt đầu Chiến tranh Nga–Ukraine, Trung Quốc đã cung cấp cho Nga các loại chất bán dẫn, thiết bị bay điều khiển bằng vô tuyến (drone), kính ngắm quang học, và công nghệ quốc phòng quan trọng. Nga công khai thừa nhận rằng hầu hết drone mà họ sử dụng đều có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Ở mặt trận Israel, lực lượng khủng bố Hamas nhận được sự hậu thuẫn của Iran, vốn là một đồng minh thân cận của Trung Cộng. Trung Quốc và Iran đã ký thỏa thuận hợp tác chiến lược vào năm 2021, và Iran đã nhận được một lượng viện trợ quân sự đáng kể từ Trung Cộng. Nhiều người nghi ngờ rằng Trung Cộng có thể đang viện trợ gián tiếp cho một cuộc chiến ủy nhiệm nhằm đánh lạc hướng Hoa Kỳ khỏi cuộc đối đầu của nước này với Trung Quốc.
Ông Gia Cát nhận xét: “Trong bối cảnh tình hình toàn cầu hiện nay, tôi e rằng sự kỳ vọng của ông Tập là Hoa Kỳ sẽ ủng hộ ông ta và vẫn sẽ trao cho Trung Cộng một chiếc phao cứu sinh là một viễn cảnh không thực tế, nhưng dù sao đi nữa ông Tập cũng sẽ không đi tay không đến gặp ông Biden đâu. Trong tay ông ta chắc hẳn sẽ có hai con bài: Chiến tranh Nga–Ukraine và Chiến tranh Israel–Hamas. Ông ta có thể sẽ dùng điều này để đàm phán với Hoa Kỳ, rằng Trung Cộng sẽ từ bỏ sự ủng hộ của mình đối với Nga và Hamas nhưng đổi lại Hoa Kỳ phải dỡ bỏ lệnh cấm vận xuất cảng các sản phẩm công nghệ cao sang Trung Quốc.”
“Nếu chuyến đi của ông Tập Cận Bình diễn ra như ý muốn, ông ấy sẽ củng cố được uy tín và quyền lực của mình trong Trung Cộng, không chỉ mang về cho Trung Cộng một chiếc phao cứu sinh mà còn giảm bớt đáng kể cuộc khủng hoảng của chính mình. Tuy nhiên, trước những diễn biến bất ngờ ở Trung Quốc, chẳng hạn như sự qua đời của cựu Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường, liệu ‘cuộc họp Biden–Tập’ có thành hiện thực? Và ngay cả nếu có, liệu Hoa Kỳ có thực sự tin tưởng những gì ông ấy nói? Tất cả những yếu tố này đều nằm ngoài tầm kiểm soát của ông Tập.”
Ông Jon Sun là cộng tác viên của The Epoch Times, chuyên về các chủ đề liên quan đến Trung Quốc.
Ông Michael Zhuang là cộng tác viên của The Epoch Times
Quan điểm trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.