Khi Hoa Kỳ và Trung Quốc tranh cãi, các CEO phương Tây tuyên bố ‘yêu Trung Cộng’
Anders Corr
Tại hội nghị an ninh hàng năm ở Singapore hôm 04/06, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc đã cáo buộc Hoa Kỳ là một cường quốc bá quyền. Với tất cả những rắc rối mà Hoa Thịnh Đốn đang gặp phải với Đài Loan và Ukraine, rõ ràng là, chúng ta không phải như vậy.
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Lloyd Austin cũng có mặt tại hội nghị. Ông ngồi cùng bàn ăn tối với Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lý Thượng Phúc (Li Shangfu). Tuy nhiên, họ ngồi cách nhau quá xa nên không thể nói chuyện với nhau – có lẽ là theo yêu cầu của Bắc Kinh.
Ông Lý đã từ chối nói chuyện với ông Austin trong nhiều năm, bất chấp nhiều lần cố gắng của ông Austin và nhu cầu hiển nhiên cần có đường dây liên lạc rõ ràng giữa các cường quốc hạt nhân.
Tại hội nghị, ông Austin đã đi vòng quanh bàn và nhận được một cái bắt tay, nhưng chỉ có thế. Ông là người đàn ông hào hiệp hơn.
Thế nhưng, Trung Cộng đang sục sôi tức tối. Họ tuyên bố rằng Mỹ đang cố gắng kiềm chế sự trỗi dậy của họ – điều này đúng một phần, nhưng chỉ trong tình thế Trung Cộng lăm le phá hoại hòa bình giữa các quốc gia.
Trung Cộng phớt lờ luật pháp quốc tế ở bất cứ đâu họ muốn, trong khi lại chỉ trích Hoa Kỳ về điều tương tự. Giống như mọi hoạt động tuyên truyền hiệu quả, sự chỉ trích này cũng vậỵ, là đúng một phần nào.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ thường chỉ vi phạm luật pháp quốc tế để ngăn chặn các hệ tư tưởng hiếu chiến ngoài tầm kiểm soát – như chủ nghĩa cộng sản hoặc chủ nghĩa khủng bố – những hệ tư tưởng dẫn đến bạo lực quốc tế và đảo ngược [tiến trình] nhân quyền và các quyền tự do dân chủ trên phạm vi rộng. Đúng vậy, Hoa Kỳ và các đồng minh của chúng ta đôi khi dùng lửa để đấu với lửa. Cần phải có bức tranh lớn hơn để hiểu làm thế nào và lý do vì sao chiến thuật đáng tiếc này có thể cần thiết.
Vậy tại sao hầu hết các nước thích Hoa Thịnh Đốn hơn Bắc Kinh? Cần phải có bức tranh toàn cảnh nào mới đạt được sự thấu hiểu để xuyên thủng tuyên truyền của Trung Cộng?
Câu trả lời là, Hoa Thịnh Đốn là một cường quốc duy trì hiện trạng. Họ không cố giành lấy ngày càng nhiều quyền lực hay lãnh thổ từ các nước láng giềng. Họ không tham gia vào một cuộc diệt chủng đang diễn ra. Họ không ủng hộ các chế độ độc tài hiếu chiến ở Nga, Iran, Miến Điện (còn được gọi là Myanmar), và Bắc Hàn.
Hoa Kỳ san sẻ quyền lực quốc tế với các quốc gia khác thông qua Liên Hiệp Quốc – được phác thảo năm 1941 và được thành lập năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Mỹ đương thời Franklin D. Roosevelt và Thủ tướng Anh đương thời Winston Churchill. Không phải ngẫu nhiên mà Bắc Kinh và Moscow xem Hoa Thịnh Đốn và London là những địch thủ đáng gờm nhất của họ.
Hoa Kỳ và Vương quốc Anh là hai quốc gia chịu trách nhiệm cao nhất, từ góc độ thể chế và vật chất, trong việc ngăn chặn những kẻ bắt nạt tồi tệ nhất của thế giới. Đây là một phần cơ sở của “mối quan hệ đặc biệt” của chúng ta, mặc dù thuật ngữ này chủ yếu được sử dụng ở Vương quốc Anh.
Hôm 04/06, ông Austin giải thích với hội nghị an ninh hàng năm – được gọi là Đối thoại Shangri-la – rằng bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc đã từ chối đối thoại với ông và thay vào đó đã dàn dựng các cuộc diễn tập không an toàn ở Biển Đông. Các cuộc diễn tập quân sự này của Trung Quốc, cùng với các cuộc diễn tập ở eo biển Đài Loan, là trái với luật pháp quốc tế.
Trung Cộng không chỉ từ chối gặp ông Austin mà còn từ chối gặp Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken. Bắc Kinh rõ ràng đang chơi trò đấu trí với Hoa Thịnh Đốn để cố gắng đe dọa chúng ta bằng cách từ chối đối thoại, trong khi thường xuyên đe dọa các lực lượng quân sự của chúng ta và gây ra rủi ro xảy ra một va chạm quân sự có thể dẫn đến leo thang. Đây là kiểu chiến thuật có những hành động nguy hiểm mang tính khiêu khích đến khi tới ranh giới an toàn mới ngừng lại (“brinkmanship”) – có từ thời Chiến Tranh Lạnh chống Liên Xô. Có thể nói rằng chúng ta hiện đang trong cuộc chiến tranh lạnh với Trung Cộng, mặc dù hầu hết vẫn phủ nhận điều đó, kể cả bản thân Trung Cộng.
Trong khi đó, Trung Cộng mưu tính làm cho Trung Quốc có vẻ như “mở cửa cho kinh doanh” để có thể tiếp tục vắt kiệt công nghệ và thương mại của Hoa Kỳ và châu Âu. Đây là nơi Trung Quốc có được sức mạnh kinh tế cần thiết để thúc đẩy sự trỗi dậy quân sự của mình.
Tổng thương mại hai chiều giữa một bên là Trung Quốc, và một bên là sự kết hợp giữa Hoa Kỳ và Liên minh Âu Châu, là con số đáng kinh ngạc 1.6 ngàn tỷ USD trong năm 2022. Con số này mang tính rất thời sự vì nó cho thấy tổng thương mại của Hoa Kỳ và Liên minh Âu Châu có thể tạo đòn bẩy chống lại Trung Cộng nếu Hoa Thịnh Đốn và Brussels đồng lòng hành động.
Điều đó cũng giải thích vì sao Hoa Thịnh Đốn và Brussels rất mềm mỏng với Bắc Kinh. Các doanh nghiệp phương Tây thu lợi từ tất cả hoạt động thương mại này và sử dụng ảnh hưởng chính trị của họ để cố gắng duy trì hoạt động kinh doanh hấp dẫn đó bằng cách cố gắng ổn định quan hệ Mỹ–Trung. Điều đó sẽ ổn nếu Trung Quốc cũng là một cường quốc muốn duy trì hiện trạng. Nhưng Trung Cộng lại không như vậy. Thay vào đó, Bắc Kinh sử dụng sự ổn định Mỹ–Trung như một nền tảng để mở rộng quyền lực của mình trên toàn cầu, đến mức trở thành mối đe dọa hiện hữu đối với Hoa Kỳ, khối EU, và toàn bộ các quốc gia có chủ quyền khác.
Trung Cộng có khả năng thực hiện thủ đoạn này là bởi vì họ có thể dễ dàng tận dụng các hoạt động kinh doanh không được phối hợp của chúng ta (thị trường tự do của chúng ta khiến các hoạt động kinh doanh về bản chất là không có sự phối hợp) cho các mục đích bá quyền của Bắc Kinh – hơn là chúng ta có thể tác động đến các hoạt động kinh doanh có phối hợp của Trung Quốc (một nền kinh tế chỉ huy của cộng sản thì bao giờ cũng phối hợp nền kinh tế trong nước của mình) để phục vụ mục đích của chúng ta là đưa dân chủ và nhân quyền vào đặc tính của Bắc Kinh. Đây là sai lầm chiến lược lớn của mối quan hệ này. Trung Cộng có thể ảnh hưởng đến nền chính trị của chúng ta dễ dàng hơn là ngược lại. Do đó, nếu tính tổng hợp, thì sự giao kết về kinh doanh đang phục vụ cho các mục đích chính trị của Bắc Kinh, chứ không phải là cho các mục đích của riêng chúng ta.
Do đó, không phải ngẫu nhiên mà Bắc Kinh ưu tiên quan hệ thương mại với Hoa Kỳ thay vì tiếp xúc với giới lãnh đạo quân sự và ngoại giao Hoa Kỳ. Trong khi từ chối gặp ông Austin và ông Blinken, Bắc Kinh giờ đây rất vui được tiếp Bộ trưởng Thương mại Gina Raimondo. Trên cương vị của mình, bà ấy chịu ảnh hưởng nhiều hơn vì lợi ích kinh doanh của Hoa Kỳ ở Trung Quốc, và do đó, dễ dàng bị Trung Cộng thao túng hơn.
Một phần để đạt mục đích đó, Trung Cộng đang đồng thời lôi kéo các nhà lãnh đạo doanh nghiệp phương Tây (CEO phương Tây) , bao gồm gần đây nhất là từ Apple, Starbucks, Tesla, JP Morgan Chase, và AstraZeneca. Những CEO phương Tây này nhanh chóng nắm lấy cơ hội giao hảo như vậy bởi vì, nói một cách đơn giản, họ muốn kiếm nhiều tiền hơn ở Trung Quốc. Họ biết những rủi ro, kể cả rủi ro từ việc các công ty Trung Quốc đang lén đánh cắp công nghệ và khách hàng của họ. Tuy nhiên, họ vẫn muốn có lợi nhuận ở Trung Quốc càng lâu càng tốt, ngay cả trong một số trường hợp khi hoạt động kinh doanh đó đi ngược lại giá trị cổ đông dài hạn.
Điều gì có thể tồi tệ hơn khi một doanh nghiệp của thị trường tự do quảng bá chủ nghĩa cộng sản? Thế mà trên thực tế, đó lại chính xác là điều mà một số CEO phương Tây đang làm. Một trong những ví dụ rõ ràng nhất là người đứng đầu AstraZeneca tại Trung Quốc – ông Vương Lỗi (Wang Lei). Theo Reuters, vào tháng trước, ông Vương cho biết AstraZeneca sẽ tìm cách trở thành một công ty yêu nước ở Trung Quốc “yêu Đảng Cộng sản”.
Trong khi AstraZeneca có trụ sở chính tại Vương quốc Anh, thì dường như công ty này đang tuân theo chỉ huy của một bên khác ở Trung Quốc. Điều tương tự cũng đúng với nhiều công ty Hoa Kỳ.
Ông Anders Corr có bằng cử nhân/cao học khoa học chính trị tại Đại học Yale (2001) và tiến sĩ về chính phủ tại Đại học Harvard (2008). Ông là người đứng đầu Corr Analytics Inc., nhà xuất bản của Tạp chí Rủi ro Chính trị, và đã thực hiện các nghiên cứu sâu rộng ở Bắc Mỹ, Âu Châu và Á Châu.
Quan điểm trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.