KHOA THI VÕ NĂM MẬU DẦN (1878)
Năm ấy, niên hiệu Tự Đức thứ 31 (1878), nhân ngũ tuần đức Dực – Tôn và thất tuần đức Từ – dụ Hoàng – thái – hậu, Triều đình mở ân khoa thi văn và thi võ tại Thanh – hóa, Nghệ – an, Thừa – thiên và các tỉnh Bắc – thành (Hà Nội): xong thi văn đến thi võ.
Ở Hà Nội, sau khi thi văn xướng danh là ngày mồng một tháng một, thì đến lượt các võ thí sinh sửa soạn vào trường.
Trước khi thi một ngày, các quan tiến trường. Rồi hôm sau, mờ đất, đầu trống canh tư, sau những hồi trống dõng dạc, dưới những ánh đình liệu sáng rực, các quan trường, mũ áo chỉnh tề, che lọng, ngồi trên các hàng ghế ngay cửa chính. Lại – phòng gọi danh sách các võ thí sinh vào trường.
Khoa này, quan chánh – chủ khảo là ông Lê Trực, tạo – sẽ xuất thân, lĩnh Lãnh – binh tỉnh Hà Nội và phó chủ khảo là ông Bùi Ước, Binh – bộ tả – thị – lang, do triều đình Huế cử ra cùng với các quan phúc, sơ. phân, giám.
Thí sinh có ngót tám nghìn người, phần đông là người các tỉnh: Hà Nội, Nam Định, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hải Dương, Hưng Hoá, Ninh Bình, Hưng Yên.
Sáng rõ mới gọi hết các thí sinh vào trường. Khác với thi văn, võ thí sinh chỉ vào người không, không mang theo gọng lều, ống quyển, vì suốt trong các ngày thi, các thí sinh đều đứng giữa trời, mặc mưa gió. Lúc vào thi đều được phép cởi áo dài, chỉ mặc quần ngắn (áo mã – khoa). Đến kỳ đấu roi thì cởi trần, chỉ mặc một cái quần. Cởi trần để dễ thấy ngay, nếu trúng roi trong khi đấu thì có chấm mực.
Khi thi, bốn cửa trường đều đóng chặt. Trong ngoài có đội thể – sát và lính tuần canh rất nghiêm – mật.
Ròng rã suốt cả tháng một, cứ cách ba ngày lại một ngày thi. Ai có điểm “ưu bình” kỳ đệ nhất mới được vào kỳ đệ nhị; kỳ đệ tam, đệ tứ cũng thế. Kỳ thứ năm là phúc – hạch.
Số trúng – cách còn độ 120 người sau các kỳ đã chọn lọc.
Đại để trong khoa này, các kỳ thi có những món võ nghệ sau đây, xin lần lượt biên từng kỳ một:
Kỳ đệ nhất – Xách hai quả tạ nặng 100 cân, hai tay xách hai quả. Có người khoẻ thì cắn thêm một quả. Đi được 20 trượng là thứ; 30 trượng là bình; 36, 40 trượng là ưu. Múa côn sắt. Côn nặng bằng 36 quan tiền kẽm. Nếu đi được: 1 bài là thứ, 2 bài là bình, 3 bài là ưu.
Kỳ đệ nhị – Côn gỗ, đi đủ 3 bài. Quên một bài cũng hỏng.
Khiên (đằng – bài, mộc bằng mây) và gươm: 1 bài. Siêu hay đại – đao, nặng bằng 15 quan tiền: 1 bài. Độc kiếm, kiếm dài 1 thước 50 phân ta, nặng bằng 15 quan tiền: 1 bài.
Dùng ngọn giáo dài 9 thước ta, đứng cách xa bồ dìn 10 trượng, chạy đến đâm. Chỗ đất thí – sinh đứng cách bồ – dìn có đào sẵn ba cái hố, sâu 5 thước, ngang 3 thước. Cứ ba hố thì ba quãng đất không. Nghe trống thúc, phải chạy (không được đi thong thả), nhẩy qua ba cái hố sâu, rồi nhằm đâm trúng rốn bồ – dìn (kỳ này khó vì nhiều người bị sa hố, không đến được chỗ bồ – dìn).
Các bài trên, đi không quên, múa tốt thì được ưu, bình. Nếu đâm trúng rốn bồ dìn hay đâm sượt qua cũng được vào kỳ đệ tam.
Kỳ đệ tam – Bắn súng có máy đá. Từ chỗ đứng bắn đến chỗ dựng bia cách xa 25 trượng, phải bắn 6 phát. Một phát trúng đích thì ăn 2 quyền (vào vòng tròn là quyền). Vòng tròn ở bia rộng một thước hai ta. Còn cái đĩa đích thì bằng 3 tấc. Không trúng vòng là liệt. Được:
1 hay 2 quyền là thứ hạng;
3 hay 4 là bình hạng;
5 hay 6 là ưu hạng;
Ai được ưu, bình, thứ thì được vào phúc hạch.
Kỳ đệ tứ và phúc hạch – Đấu roi: dùng 2 cái côn gỗ dài 7 thước ta, đầu côn bọc giẻ có nhúng mực. Ai thắng đấu với thắng; phụ, đấu với phụ. Nhất thắng, nhất phụ là thứ hạng; nhất thắng, nhất đồng là bình hạng; nhị thắng là ưu hạng.
Bắn: Bia là một người bồ dìn bằng bùn quét vôi. Thí sinh đứng cách bia 25 trượng. Kỳ này chỉ trúng một phát cũng được. Cách điểm số như đây:
1 phát là thứ;
2 phát là bình;
3 phát là ưu;
Xong cả 4 kỳ thì đến xướng danh. Nhưng xướng danh rồi, các thí sinh lại phải xách tạ lại. Nếu đi trụt lại 1, 2 thước cũng bị đánh hỏng (Sở dĩ có kỳ này là phòng thi gian).
Trong kỳ phúc hạch khoa này có ông Bùi Duy Thiện, quán làng Hoà Mã, tỉnh Hà Nội, vì ốm nên xách tạ bị trụt; quan trường phải làm sớ tâu lên. Ông bị gọi vào Kinh thi lại trong một ngày, nhưng sau cũng được lấy vào hạng cử nhân võ.
Kết quả khoa này chỉ được 34 võ cử nhân ghi tên lên hổ – bảng. Bảng bằng phên cót, sau lưng có vẽ con hổ Quan trường vì thương trong bọn thí sinh có nhiều người tài nên lấy đỗ thêm 80 người nữa và ban cho áo mũ hẳn hoi. Nhưng sau sớ tấu về Kinh 80 ông cử này lại bị bác và bị tỉnh thần ở nguyên quán, theo tờ sức, đòi lại áo mũ. Mỗi người lại phải trả 12 quan tiền, là tiền giặt áo ban nữa. Vì có sự này, nên trong số 80 ông cử “trượt” ấy, người thì phẫn uất mà chết vì đã khao – vọng cả, người thì bất đắc chí, mưu đồ làm việc khuấy nước chọc trời.
Thế là khoa Mậu – dần chỉ có 34 võ cử nhân. Nhưng làm nên đường quan cũng ít. Mà đến nay cũng không mấy người còn sống. Duy chỉ còn lại một cụ năm nay đã 91 tuổi (1). Nhờ thế, chúng tôi còn ghi tên được ít nhiều vị võ cử hoặc xuất chính hoặc có ra tòng quân dưới triều Tự Đức.
Bảng khoa Mậu – dần có các vị này:
Thủ khoa: Nguyễn – Kỳ, quán tỉnh Quảng Bình.
Á nguyên: Nguyễn – Hữu – Hiển, quán tỉnh Hà – đông.
Nguyễn – Đình – Trọng (tức Cử Tôn, quán Hà Nội) hàm chưởng vệ.
Nguyễn – Kế – Định tức Cử Thiện.
Nguyễn – Long tức phó bảng Long, đỗ phó bảng, sau thi hội, làm đến thuỷ vệ quản – cơ.
Tạ – Đình – Kiên, quán Ngọc Hà, Hà Đông. Sau đi quân thứ, bị chết.
Nguyễn Tiến Lâu (Làm đến lãnh binh Sơn tây)
Nguyễn Hữu Dũng (sau thi hội, đỗ phó bảng, tức phó bảng Dũng)
Phạm Văn Duệ, quán Hưng – yên (Sau thi hội, đỗ phó bảng, tức phó bảng Duệ)
Nguyễn Tiến Lãng; Nguyễn Tiến Điền, quán Khúc – thuỷ, Hà Đông.
Nguyễn Khắc Sự, quán Nghệ – an (làm đến Vệ uý).
Nguyễn Văn Thuý, quán Cổ Liêu, Hà – Nam.
Đinh đình Kinh (53 tuổi mới đỗ, làm đến lãnh – binh Hà – nam)
Lê văn Danh, quán Đa – sĩ Hà – đông (sau phải cách)
Nguyễn văn Nhàn, quán Thanh – trì Hà – đông.
Bùi duy Thiện, quán Hoà – mã, Hà – nội (phải thi lại), làm đến lãnh binh Dịch – Lâm (Bãi sậy), Hưng – yên, sau bị chết.
Trương văn Bằng, quán Hà – khẩu Hà – nội (do chân đội tuần xuất thân, đỗ rốt bảng).
Trên đây là phương danh mấy vị võ cử do một cụ trong bảng ấy còn sống cho chúng tôi biết tên. Còn thì, vì lâu ngày nên cụ quên cả không nhớ hết. Mong rằng ngài nào là con cháu các cụ võ khoa ấy hoặc đính chính hoặc kê – cứu thêm cho.
Sau khoa Mậu – dần, ở Hà – nội chỉ còn một khoa võ hương thi vào năm Kỷ – mão (1879) nữa thôi. Nhưng ở Kinh còn hai khoa võ hội thi nữa.
Thời gian qua. Việc thi võ nay đã tiêu – diệt, không mấy khi được nhắc nhở trong trí nhớ người ta. Vài ông võ cử trên bảng võ hai khoa Mậu – dần (1878) và Kỷ – mão (1879) đến nay chỉ còn lác đác như sao sớm lưa thưa.
TIÊN ĐÀM
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
- Cụ Nguyễn – đình Trọng tiều huý là Tốn, ngụ phố Văn – Tân Hà – nội là dòng dõi công thần nhà Lê, nguyên quán ở phủ Thiệu – hoá tỉnh Thanh – hóa, năm nay cụ đã 91 tuổi. Năm 1940 cụ được ân phong hàm chưởng vệ. Những tài liệu ở trên là do cụ nói chuyện, rồi chúng tôi tham khảo các sách mà viết ra. Xin trân trọng cảm tạ cụ T. Đ.
Xem thêm: