Quyết chiến Đông Bộ Đầu, kỵ binh Mông Cổ thất thủ trước thủy quân Việt 

Sau cuộc chiến Bình Lệ Nguyên, Lê Tần đã trở thành cánh tay phải đắc lực của Trần Thái Tông. Lúc đó thế giặc rất mạnh, vua Thái Tông buộc phải lui quân để giữ sông Thiên Mạc. Lê Tần theo vua bàn việc cơ mật. Ông cũng chính là một trong những tướng lĩnh chủ chốt đưa ra kế sách và thực thi chiến dịch phản công Đông Bộ Đầu quét sạch quân Mông Cổ ra khỏi Thăng Long.

Quân Mông Cổ ở Thăng Long chỉ hơn một tuần thì nhuệ khí và sức chiến đấu suy giảm mạnh so với thời điểm ban đầu mới tiến sang. Một mặt quân Mông lâm vào cảnh thiếu thốn lương thực, mặt khác chúng bị các làng xóm xung quanh Thăng Long kiên định chống cự. Quân Mông Cổ đã mất dấu triều đình Đại Việt nên có muốn tiếp tục cuộc rượt đuổi giữa kỵ binh và thuyền chiến cũng không được.

Tình hình đã nằm ngoài sự suy tính của Ngột Lương Hợp Thai. Viên tướng được mệnh danh bách chiến bách thắng trong quân đội Mông Cổ lần này phải đối mặt với một thế trận không giống bất cứ nơi đâu mà y từng chinh chiến. Các dân tộc đã bị quân Mông tiêu diệt thì khi mất kinh đô sẽ rối loạn mà đầu hàng. Tuy nhiên, người Việt lại không coi kinh đô là trọng huyệt. Rõ ràng là đại thắng trận đầu nhưng lại chẳng làm tổn thương một thủ lĩnh Đại Việt nào. Dân chúng cũng chẳng sợ sệt binh uy của Thiên Triều, quan quân ra ngoài cướp bóc còn bị đánh phục kích. 

Thời điểm đó tại Thiên Mạc, quân Đại Việt hừng hực khí thế phản công. Kể từ sau trận Bình Lệ Nguyên, vua Trần Thái Tông đặc biệt tin cậy Ngự sử trung tán Lê Tần. Hằng ngày Lê Tần đều cùng vua và Thái sư Trần Thủ Độ bàn việc cơ mật, lên kế hoạch chiếm lại kinh thành. Trong lúc đại quân còn đang chuẩn bị ở Thiên Mạc, thì Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư đã tự thống lĩnh đội gia binh của mình liên tiếp cơ động ở gần đại doanh của Mông Cổ, tổ chức những trận mai phục nhỏ tiêu diệt những toán quân đi lẻ tẻ cướp bóc. 

Vị tướng trẻ Trần Khánh Dư bấy giờ đương tuổi thiếu niên với cách đánh ứng biến mau lẹ cùng đội quân của mình đã làm cho quân địch thêm phần hoang mang, càng cổ vũ nhuệ khí quân ta dâng cao. Mọi việc bàn định và chuẩn bị xong, cuối tháng Giêng năm 1258 binh thuyền Đại Việt nối tiếp nhau xuôi dòng sông Hồng tiến thẳng về thành Thăng Long, quyết chí thu phục lại kinh đô, đuổi giặc khỏi bờ cõi. 

Chiến thuyền Đại Việt thời này vừa đông đảo, vừa đa dạng về chủng loại, với nhiều chức năng chiến đấu khác nhau. Chiếm số lượng nhiều nhất trong hạm đội là những thuyền loại Mông Đồng. Loại thuyền này mạn thấp, mũi thuyền vút cao, có mái che tên, mỗi chiếc chở được khoảng 60 người. Trong đó có khoảng 30 tay chèo, 30 thủy binh. Khi lâm trận, tùy tình huống mà người chèo thuyền cũng có thể cầm vũ khí tham gia chiến đấu như binh lính. 

Hoàng thái tử Trần Hoảng (sau là vua Trần Thánh Tông) bấy giờ mới 18 tuổi, được vua Trần Thái Tông giao quyền đồng chỉ huy, trực tiếp thống lĩnh đội thuyền chiến có nhiều tầng lầu (lâu thuyền) đi tiên phong. Vua Trần Thái Tông đích thân ngự lâu thuyền dẫn toàn quân còn lại theo sau tiếp ứng. 

Nửa đêm ngày 28, rạng sáng ngày 29/1/1258 (24 tháng Chạp năm Đinh Tỵ 1257 âm lịch), quân Đại Việt tắt hết đèn đuốc, âm thầm chèo thuyền đến gần bến Đông Bộ Đầu, nơi quân Mông Cổ đóng đại doanh. Ngay sau khi tiếp cận thành công, thình lình trống trận quân Đại Việt nổi lên, đèn đuốc thắp sáng rực một khúc sông. Những làn mưa tên từ những chiến thuyền Đại Việt bắn tới tấp vào các chốt lính canh.

Kế đến, hàng lớp chiến thuyền lớn nhỏ nhanh chóng đưa quân đổ bộ lên bờ, đánh sâu vào doanh trại địch. Lợi thế lớn ở chiến thuyền giúp cho quân Đại Việt có thể đổ bộ một cách dễ dàng. Quân Mông Cổ bị tấn công vào nửa đêm, sau những tổn thất ở vòng ngoài và hoảng loạn ban đầu thì gấp gáp định thần, mặc giáp cầm gươm ra chống đỡ. 

Ngột Lương Hợp Thai ra sức hô hào chỉnh đốn hàng ngũ. Từ các lều trại, quân Mông vội lên ngựa ùa ra kịch chiến với quân Đại Việt. Lúc này Đại Việt đã tấn công sâu lên bờ với lợi thế áp đảo về quân số, sĩ khí, một bên là quân được ăn uống no đủ đánh bên quân đói vì thiếu lương thực, nên trận tuyến Đại Việt hoàn toàn áp đảo quân địch. Thái tử Trần Hoảng cùng vua Trần Thái Tông ngự trên lâu thuyền chỉ huy toàn trận đánh. 

Những chiến tướng Đại Việt như Trần Quốc Tuấn, Trần Khánh Dư, Lê Tần… chia quân làm nhiều mũi công kích giặc trên các hướng. Quân Mông Cổ dồn quân chỗ cự mặt này thì lại hở mặt kia do thiếu quân và bất lợi lúc trời tối. Trần Khánh Dư quan sát được sơ hở của địch, thúc quân đánh thọc sâu vào trận địa làm hàng ngũ Mông Cổ càng thêm rối loạn và tổn thất nặng nề. 

Khí thế quân Đại Việt ngút trời, dần hình thành thế bao vây quân địch. Là một tướng lão luyện, Ngột Lương Hợp Thai nhanh chóng nhận ra thế trận đã được định đoạt. Y lập tức hạ lệnh rút lui gấp về hướng bắc để bảo toàn lực lượng. Tính tổng cộng quân Mông Cổ chỉ ở Thăng Long được 9 ngày. Quân Mông Cổ rút theo đường cũ, men theo sông Nhị, sông Thao mà chạy một mạch về biên giới tây bắc Đại Việt.

Hơn 50,000 quân hùng hổ kéo sang chưa đến 1 tháng đã chạy trốn chỉ còn hơn 5,000 người khi hội quân với Hốt Tất Liệt, Ngột Lương Hợp Thai sau đó bị tịch thu binh quyền. Ngột Lương Hợp Thai đã gặp phải kẻ địch lớn nhất đời y, không chỉ một người mà là cả một vương triều. 

Sau khi đánh bại nhà Tống, thôn tính toàn bộ Trung Quốc, năm 1285, giặc Mông Nguyên lại đem 50 vạn quân ồ ạt tiến sang nước ta lần thứ hai. Lần này, lão tướng quân Lê Tần cùng Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản đem 3 vạn quân vào giữ đất Nghệ An, kìm bước tiến quân của giặc đánh từ trong ra. Ông cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình và góp phần đáng kể vào chiến thắng quân Mông Nguyên lần thứ hai của nhà Trần. 

Vừa tạm nghỉ việc chinh chiến, Lê Tần cùng Chu Bác Lãm được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc, thực hiện chủ trương hòa hiếu với Mông Cổ, gìn giữ hòa bình cho đất nước. Lúc này, sứ Nguyên sang đòi lễ vật hằng năm, đòi tăng thêm tiến cống, thái độ rất không hữu hảo. Với tài ngoại giao của mình, Lê Tần đã khiến triều đình Mông Cổ thôi đòi lễ vật tiến cống hằng năm mà quy định cứ 3 năm mới phải triều cống một lần.

Ngày 24/2/1258 (theo âm lịch), vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho con là Trần Hoảng để làm Thái Thượng hoàng. Trần Hoảng lên ngôi, tức vua Trần Thánh Tông. Tháng 6/1259, Thánh Tông giao cho Lê Tần làm Thủy quân đại tướng quân.

(Mời quý vị đón đọc kỳ III)

Minh Bảo

Chia sẻ bài viết này tới bạn bè của bạn