Lược khảo về lễ tế Nam Giao
Đối với người Đông-phương, vòm trời xanh biếc không phải là một không-gian gồm có nhật, nguyệt, tinh, vân, mà lại là một Chúa-Tể thiêng-liêng sinh hóa ra vạn vật, thưởng công, phạt tội, bạn phúc, tác uy, tóm lại là Trời, là Đấng chủ trì vận mệnh của loài người.
Cho nên mỗi khi gặp sự may mắn, rủi-ro, người ta đều cho là tạt Trời. Phương ngôn có câu: “Không trời ai ở với ai !” và “Trời có mắt”. Kinh Thi có câu: “Du du sương thiên hai kỳ hữu cực” (Dằng- dặc ông Trời xanh kia, biết đâu là cùng cực) để tả hiện trạng người bị khổ. Lại Đạo đức kinh của Lão-tử cũng theo nghĩa trời, có chép: Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh, tịch hề, liêu hề độc lập nhi bất cải, chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên-hạ mẫu (Có một vật do sự hỗn hợp mà thành, nó sinh ra trước trời đất; vừa trống-không vừa yên lặng, đứng yên một mình mà không biết cải, trôi đi mọi nơi mà không thôi, có thể làm mẹ đẻ của thiện-hà) để tả cái nghĩa chữ “đạo” trong vũ-trụ.
Vì vậy theo chính đạo, lễ tế Trời Đất là vua phải đứng chủ-tế, ngoài ra không ai được mạo lạm tế Trời. Cũng vì thế, trong chế, sắc của nhà vua thường có câu “thụ thiên chi mệnh và thừa thiên hưng vận” vua tức là thiên-tử vậy.
Giao nghĩa là gì: Giao là tên một lễ tế Trời. Ở Trang-quốc vốn từ đời Vô-hòai, Phục-Hi có lễ Phong: nhà vua sai đắp đàn ở núi Thái-sơn để lễ Trời. Đến nhà Châu, tiết đồng chí thì thờ Trời ở Nam-giao, tiết hạ-chí thì thờ Đất ở Bắc-giao, cho nên gọi lễ tế-tự Trời Đất là “Giao”.
Theo kinh Lễ, thì lễ giao, lễ xã là để thờ đức Thượng đế.
Đời Hán Bình-đế, niên-hiệu Nguyên-thủy thứ tư, giao tự vua Cao-tổ để phối với Trời, tôi tự vua Hiếu văn để phối với Thượng đế.
Lễ tế Nam-giao của nước ta bắt đầu từ đời Lý Anh Tông (1138-1175). sử chép rằng: “Tháng chín, mùa thu, năm Giáp-tuất, niên hiệu Đại-định thứ 15 (1154) đắp cái đàn gò tròn (viên khâu đàn), vua Lý Anh Tôn đến trông-coi”. Đàn tế trời đất ở trên gò tròn ở phía nam ngoài cõi giao, nên gọi là “Nam-giao” .
Nhà Lê đóng đô ở Thăng-long, thường để giao trong đền Chiêu-sứ phía nam kinh thành (tức là chỗ nhà máy diêm bây giờ) (1).
Đến bản triều, sau khi đức Gia long bình-định Bắc-hà, định đỉnh ở Huế, mới sai đắp đàn ở phía nam kinh thành vào năm Gia-long thứ 5 (1806). Trước thời ấy, tế nam-giao về phía tây núi Ngự-bình, chỗ thường gọi là “Hòn Thiên”
Đàn nam-giao ở Huế, (3) diện-tích hơn mười mẫu tây. Xung-quanh có thành xây bằng đá, bề trường gần 400 thước tây, bề hoành độ 55 thước tây, bốn phía đều có cổng.
Cổng chỉ là bốn cái trụ vôi cao độ 5 thước tây, xây cách nhau hai, ba thước tây, không có cửa đóng.
Trước 4 cửa tiền hàn tả hữu đều có bình phong lớn bằng gạch, bề trường 15 thước tây, bề cao hơn 5 thước 4. Qua bốn cửa thời đến một nơi trồng thông từng hàng lối, rồi đến đàn tế ba từng:
Từng thứ ba (kế theo thứ-tự trên xuống) hình vuông (nhương đàn) mỗi bề hơn 160 thước tây có lan can sơn vôi màu đỏ. Bốn góc có trồng 4 cây đuốc to (liêu trụ) cao 6 thước tây, đốt sáng rực khi tế.
Trên từng thứ ba có chỗ gọi là “Phần sài” dùng để thiêu con nghé (trâu con) trong khi hành lễ. Đối với “Phần sài” có chỗ “Ế mao huyết” là chỗ chôn ít huyết và lông trâu khi hành lễ. Trên từng này có nhà “Đại thứ” để Hoàng-thượng nghỉ chân khi ngài ở Trai-cung (4) sang
Từng thứ nhì cũng vuông (phương đàn) mỗi bề cao độ 45 thước tây, lan-can sơn vôi màu vàng, ở trên có dựng một cái nhà trần-thiết cũng màu vàng (Hoàng-ốc) có tám hương-án phụ (tùng đàn bát ân) bên tả: 4 án thờ: mặt giời, các vì sao, mây, mưa, gió sấm, năm, tháng.
Bện hữu: một án thờ mặt giăng và 3 án thờ địa thần (gò, đồi, đồng bằng, thần trong thiên-hạ, thần núi các tôn lăng). Những án thờ thiên thần đều sơn mùi xanh, án thờ địa thần đều sơn màu vàng.
Từng thứ nhất, hình tròn, đường kính 41 thuốc tây, lan-can sơn một màu xanh, Từng này thường gọi là viên đàn. Trên viên đàn có rạp trần-thiết màu xanh, (Thanh-ốc).
Viên đàn có bày 10 án: bên hữu thờ Giời (Hiệu-thiên thượng-đế) và 4 án thờ đức Cao-hoàng, Gia-long, Minh-mệnh, Thiệu-trị. Bên tả thờ Đất (Hoàng địa kỳ) và bổn án thờ đức Tự-đức, Đồng-khánh, Kiến-phúc, Khải- định. Sát lan-can thiên đàn có treo hai mươi tám ngọn đèn là biểu-hiệu nhị thập bát tú.
Lễ nam-giao là một lễ rất lớn, nên ngày hành lễ là một ngày rất can-hệ. Khi xưa nhà Lê (theo bia nam-giao) thường hay hành lễ vào ngày mồng 10 tháng giêng. Bản-triều định cư ba năm một lần tế, và cứ năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì tế giao.
Lễ nam-giao cử hành vào mùa xuân, nên đầu tháng giêng, tòa Khâm-thiên-giám phải lựa một ngày tốt (hiệp cát) trong ba ngày Tân, rồi tâu lên Hoàng-thượng chuẩn ý. Ngày ấy là ngày chính lễ. Khi xưa, lại có lệ xin âm-dương để chọn ngày lễ nam-giao, gọi là “bốc giao”. nhưng lệ này đã bãi bỏ.
Lễ nam-giao bao giờ cũng cử-hành vào nửa đêm, giờ Tý, lấy nghĩa rằng: “Trời thành-lập vào giờ Tý” (Thiên thai ư Tý – Vũ-trụ luận).
Lễ này do thiên-tử đúng chủ tế, nhưng cũng có khi ngài se mình thì có quan khâm mạng ra tế. Hồi xưa, thời nhà Lê, chúa Trịnh tế thay vua, và bản-triều đức Tự-đức hay se yếu thường có một vị hoàng-thân thay ngài. Gần đây trong hồi Kim thượng còn du-học bên Pháp thời quan Phụ-chánh thân thân là khâm mạng hành lễ.
Theo Hội-điển, nghi tiết tế nam-giáo rất là phiền phức: Trước ngày tế Hoàng-thượng và các quan dự lễ đều phải trai giới và lên nam-giao một ngày trước, (khi xưa định phải trai-giới trong ba ngày) (5). Bộ Lễ đã phải ấn định danh-sách các quan dự lễ: đại để có các quan bồi-tự (thâm mạng tế ở các phụ án) phân-hiến; còn các quan khác gọi là dự sự.
Một vị hoàng-thân hay một vị đại thần gọi là cung chử để phòng khi thay Hoàng-thượng hành lễ. Một vị hoàng-thân sang tỉnh thị, xem xét các lễ nghi. Quan cung kiểm giúp Hoàng-thượng ở tuần rượu thứ ba (trung hiến) và lúc tứ phước tộ (ban thịt và rượu). Quan Thượng-thư bộ Lễ-nghi sung chức cung-đạo để dẫn đường khi Hoàng thượng đăng đàn hành lễ. Quan Đô-sát làm thị-nghi coi tất cả các việc. Một vị tuyên chũc, (đọc chúc) hai nội tán, hai ngoại thông tán, hai vị chấp chúc (bưng nến). Lại có các quan phủng hương-lư (bưng lư hương), phủng tôn (bưng đài rượu), phủng tước, phủng tộ nhục (bưng thịt tế), điện ngọc bạch (dâng lụa ngọc), thị lập (xếp các đồ lễ lên án), 6 vị tiên tộ (dâng xôi, thịt), một cung thư (viết các thần vị). Ngoài ra còn các quan xung vào những phụ án và coi về âm-nhạc (chấp nhạc-kỳ).
Phẩm phục tế nam-giao của các quan bồi tự, phân hiến đó có riêng, các quan trông coi các việc không phải hành lễ thì mặc triều-phục. Lúc hành lễ, Hoàng-thượng mặc áo cần rộng tay, màu huyết-rụ, có thêu rồng và nhật, nguyệt, tinh tú, trong có xiêm (thường) thêu; đắng trước có một bổ-tử rủ xuống gọi là “tế-tất”, và đằng sau gọi là “đại thọ” vai có “đại đái” (đai) và lưng có đai ngang (cách đái) dát vàng, ngọc, mỗi bên cạnh Hoàng thường có đeo túi ngọc vàng bạc. Khi hành lễ, những thứ này đến rung động thành tiếng. Ngài đi hia đỏ thêu rồng.
Trong khi hành lễ, hoàng-thượng tay cầm một cái hốt gọi là: “trấn khuê” để lễ cho nghiêm-chỉnh; trên đầu, Ngài đội mũ miện có quai, chỏm mũ có một miếng vuông bình-thiên và trước sau có rủ xuống 12 tua ngọc tượng hình 12 tháng trong một năm.
Tế nam-giao, như trên chúng tôi đã nói, bắt đầu từ giờ Tý, vì lễ nghi nhiều thứ phiền-phức khó khăn, nên có khi gần sáng mới xong. Ngoài ba tuần ruợu, lại còn những lễ tiến soạn, tiến tộ v. v. Mà những lễ phẩm này đều do sở Thần-trù đã xếp-đặt sẵn-sàng từ trước.
Theo lệ khi xưa, trước lễ nam-giao một năm, bộ Lễ phải dự định; 2 con nghé đen sừng đỏ, 100 con nghé đen sừng đen, hai con dê non trắng, 100 de non vàng, hai con lợn đen tuyền, 100 con lợn thường; lựa-chọn rồi làm chuồng bằng tre non để nhốt nuôi, chờ ngày hành lễ. Những vật ấy dùng làm lễ tam sinh. Nhưng đến năm Duy tân thứ 9 (1916), kỳ tế nam-giao năm Ất-mão, đã giảm xuống 8 con nghé, 8 con trâu, 7 dê,7 lợn, một con bò, và một con hươu (6)
Gần đây lại còn giảm nhiều nữa. Năm Bính tý (1936), số chi-tiêu về lễ tế nam-giao chỉ con bằng một phần tư các kỳ tế trước.
Ngoài lễ tam-sinh, tế nam-giao có dùng lụa và ngọc làm lễ-phẩm. Khi trước thường dùng: Hai phiến ngọc khuê, 9 cây lụa: 3 cây lụa (Bồ-sơn), 3 cây lụa Nguyễn (Thái-bình) 3 cây lụa Hạc (Sơn-tây) nhuộm xanh. Ngày nay số lụa ấy tinh giảm nhiều.
Khi trước lại còn các thổ sản, như quế, kỷ-nam; nhưng nay cũng giảm. Cả đến việc phân sài (thui con nghé) trước kia dùng củi quê, nay cũng đã thay bằng củi thông.
Các lễ phẩm trên mỗi khi dâng lên đàn cùng với những lúc dâng ruợu và hành lễ đều có cử nhạc, thường gọi là tấu nhạc, tất cả có 10 chương nhạc, xin đăng nguyễn-văn bằng chữ hán ra đây ( xin coi bản dịch nghĩa ở cuối) (7)
I An thành chi chương
Khâm thừa hưu mạng,
Tượng hiệp thái thông
Bật phân nguyên tự
Thị ngưỡng thị sùng:
Hữu kiền phủ qủy,
Hữu nghiêm cổ chung.
Thần lai yến sĩ,
Hiệp giám di trung.
II Triệu hành chi chương
Đãng hồ vô ngân,
Đồi nhiên chí tĩnh.
Công đức nguy nguy
Dữ thiên địa tịnh,
Cung đang thị sinh,
Vô khả dĩ xưng.
Gia chí thị tương
Duật lai thành kính
Tấu cách vô ngôn
Vinh ngôn phối mạng.
Giáng phúc khổng giai
Thanh ninh hiệp khách
III Mỹ thành chi chương
Nghi văn tái cử,
Chung cổ khanh tương.
Quế tư sở uẩn
Ngọc giả túc tương.
Chước bỉ thuần chỉ,
Tiến thử lệnh Phương
Phần sài uất uất,
Điện bích thương thương.
Như tại kỳ thượng,
Trạc trạc dương dương.
Cao cung tả hữu,
Yểm ái linh quang
Thần kỳ ninh chỉ,
Giảm cách hâm thưởng
Hòa khí bàng đạt,
Tự thiên giáng khang
Tích tư chỉ phúc,
Huệ ngã vô cương.
Lai thành lai hạ,
Tỉ xí tỉ xương.
IV Đoan thành chi chương
Hữu dực kỳ lâm,
Ô hô bất hiển
Túc túc cung từ
Ung dung chấp điện.
Minh đức duy hinh.
Giao trường tái hiến.
Ngọc bạch khổng gia,
Biên đậu hữu tiễn.
Túc hướng tư đạo,
Bật phân chi tiến.
Thuần thành thị tương,
Nhạc nghi thức triển.
Sài diễm khê kha,
Tường phong hồi chuyển.
Mục mục cư hâm,
Giảm tư vô viễn.
Tuy ngã tư thành,
Linh chi đốc quyến.
Kế kế thừa thừa,
Vân nhưng phồn diễn.
V Vĩnh thành chi chương
Huân cao đối việt,
Bất khả đạc tư
Ngã tương, ngã hưởng,
Túc túc chi chi.
Hi tôn tam dịch,
Thị hưởng, thị nghi.
Lễ văn chật chật
Bất khiên vu nghi.
Lục biến kỳ tất,
Cửa thành phất vi.
Khác cung vô dịch
Thư kỳ hựu chi.
Lẫm tư chắc giang
Thần quang diệu huy.
Mục tương cảnh phúc,
Ô hoàng bảo tuy
Nhương nhương giản giản,
Giới dĩ phồn hi.
VI Lai thành chi chương
Thần giám tại tư:
Tích dĩ thuần phúc;
Thụ mạng duy kiền,
Qùy qùy trai túc.
VII Doãn thành chi chương
Cô tàm phỉ điện,
Duật khánh trang tâm.
Thần quang khổng nhĩ,
Túc ngưỡng kiền hâm.
Thành thân cáo triệt:
Tủng luyến dan khâm.
Hoàng linh duy giám,
Tích chỉ hoàng thâm.
VIII Hi thành chi chương
Đại báo kí thành,
Phất hà hữu hỉ.
Thần ngự giao hưng,
Bách linh chi vệ.
Di thử hưu gia,
Thùy ân chừ chỉ.
Linh hự phi cơ.
Vĩnh tuy phúc lí.
IX Hựu thành chi chương
Long ngài cáo bi,
Gia hinh khánh thành.
Hữu kiện quán hỏa,
Bỉnh việt phương hinh.
Không minh thụy ái,
Liễu nhiễu xích đình.
Tinh trì, nguyệt ngự,
Nguỡng chỉ vân biền.
Đại tai kiền thủy,
Chí tai khôn sinh !
Phát tường lưu khánh,
Vĩnh hưu phi bình.
X Khánh thành chi chương
Minh minh ngã hoàng:
Đức âm thi mậu.
Phi đan quyết tâm,
Nghiêm cung đế tổ.
Duy thánh hưởng đế,
Duy hiếu hưởng thân,
Hoàng nghi bị hĩ,
Tái cử minh nhân.
Minh loan phong hóa,
Thúy anh vân hộ.
Nhĩ khoản thanh quang,
Kính dâng thần hựu.
Long chương cẳng diệu,
Thăng giáng trật nhiên.
Tuấn bôn tả hữu.
Thức lễ mạc khiên.
Tam hiến sùng nghi,
Của thành bị nhạc,
Cách vu thần minh,
Tộ tư nguyên cát.
Khung kỳ hiệp quyến,
Tiên tổ thị hoàng.
Thấp hi thuần hỗ,
Du cửu vô cương !
Phường nhạc tế nam-giao chia ra làm hai đội cộng là 128 người; có tất cả 64 văn sinh và 64 võ sinh, mỗi ban dưới quyền trông-coi của một viên bát-phẩm gọi là văn-sư hay võ-sư. Cờ hiệu của văn-sư là huy, của võ-sư là sanh.
Văn-sinh mặc áo quan văn màu thiên-thanh rộng tay, đội mũ mông. Khi múa và tấu nhạc thì tay trái cầm cái thược sơn son (như ống sáo) và tay phải cầm cái vũ (trên có chạm con thiên-hình và có lông gà).
Võ sinh mặc áo quan võ màu thiên thanh, chẽn tay, đội mũ có chỏm. Khi múa và tấu nhạc thì tay trái cầm cái can (cái mộc) sơn son thiếp vàng, tay phải cầm cái thích (búa).
Những nhạc công đều theo chỉ-huy của các văn-sư, võ-sư mà cử nhạc cùng múa trọng khi hành lễ,
Còn gì nghiêm-trang và hùng-vĩ bằng trong khoảng đêm thanh tịch-mịch, dưới những ánh lửa của các đình-liệu cao ngất, sáng rực, tiếng âm-nhạc du-dương hồi lâu với tiếng hát véo von vang động trong những ngàn thông bóng núi thấu đến trời cao, tưởng chừng như đức Thượng-đế tuy ở trên vời-vợi cũng cảm-kích đến lòng thành của đấng chí-tôn thay mặt cho cả thần dân mà hành lễ cầu cho phong đăng hòa cốc và quốc thái dân an (8)
TIÊN ĐÀM
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
1) Revue Indochinoise 28 Novembre 1900 – Damoutlier. Bia Nam-giao ở trường Bác-cổ.
2) Tế Nam-giao, Từ-Lâm Nguyễn Xuân-Nghị.
3) Kỳ sau, T.T. sẽ đăng bức đồ vẽ đàn nam-giao xin các bạn đón coi.
4) Coi bài “Trai cung” của Từ-Lâm trong số này.
5) Về nghi-tiết xin xem ở các sách, Bulletin amies vieux, Huế-1915, 1936; Tế Nam-giao của Nguyễn Xuân Nghị nhà in Đắc Lập.
6) Bulletin A.V.H. La Céré tronie Nam-giao 30-31 Mar 1913.
7) Những chương này, hai ông Trần văn Giáp và Nguyễn văn-Huyền ở trường Viễn-đông Bác cổ đi dịch ra tiếng Pháp đăng ở tạp chí “Est”. Tài-liệu này của ông Giáp cho. Xin kính tạ