Lương Thế Vinh
Quán xã Cao-hương tỉnh Nam-định, Lương thế-Vinh là thần đồng dưới thời Lê Thánh – Tôn.
Thông-minh vốn sẵn tư trời, học ít, nhớ nhiều, tuổi còn trẻ, ông đã soạn được bộ Toán-pháp-đại-thành lưu-hành trong nước và còn truyền tới ngày nay.
Thấy Quách Đình-Bảo là người có tiếng học giỏi ở đương-thời, nên một ngày kia, ông hỏi thăm đến nhà để thử tài cao thấp. Đến nơi, thấy nói Quách đương xem sách trong thư-phòng, ông coi thường, trở ra về, không vào nhà Quách nữa. Quách được tin, một hôm, cũng thân đến thăm ông xem tài học ra sao. Đến nơi, hỏi người nhà, mới biết ông đương thả diều ở ngoài đồng. Quách thán phục mà rằng: “Kỳ thi sắp tới mà không quan – tâm đến chút nào, thực là một bực kỳ-tài, như nhời đồn không sai !”
Vì tính ham chơi, một hôm, ông đương cùng trẻ chơi đùa ngoài đường, có một bọn người Tàu đi qua muốn thử tài giống Việt-nam, bèn đào một cái hố sâu độ một thước ta, bỏ quả bưởi xuống, đố lũ trẻ: “Ta cấm không đứa nào được dùng que gắp, thế mà lấy được quả bưởi lên, thì ta sẽ thưởng tiền rất hậu”. Lũ trẻ nghĩ mãi, không biết làm cách nào. Lương bèn xui chúng lấy nước đổ vào hố sâu, tự-nhiên bưởi nổi lên mà trôi ra ngoài. Bọn khách đều chịu là khôn-ngoan, thưởng tiền cho lũ trẻ, rồi kéo nhau đi.
Niên-hiệu Quang-thuận (1460 – 1469), vua Lê Thánh-Tôn mở khoa thi. Lương thế-Vinh, khi ấy 22 tuổi, đỗ Trạng-nguyên. Vua ban khen ông có văn-học uẩn-súc. Cùng khoa có Nguyễn Đức-Trinh đỗ Bảng-nhỡn và Quánh Đình-Bảo đỗ Thám-hoa. Vua sai chế cờ tam khôi có bốn câu thơ rằng :
“Trạng-nguyên Lương thế-Vinh,
Bảng-nhỡn Nguyễn Đức-Trinh,
Thám-hoa Quách Đình-Bảo,
Thiên-hạ đều nức danh”
Sinh vào đời thái-bình thịnh-trị, tuổi trẻ đỗ đến Trạng-nguyên, thực là một thiên-tài ít có ở thời bấy giờ.
Sơ-bổ Hàn-lâm Trực-học-sĩ quyền Cấp-sự-trung, ông một tay soạn hết cả bao nhiêu công-văn ở đương thời. Văn-chương lừng-lẫy trong nước, tiếng vang cả ra ngoài cõi. Vua nhà Minh khen nước Nam không hiếm nhân-tài, thực không phải quá đáng !
Niên-hiệu Hồng-đức (1470 – 1497), Lương được thăng Hàn-lâm Thị-trung Trưởng-viện kiêm chức Tú-lâm-cục ở quán Chiêu-văn; sau lại được dự vào sái phu ở Tao-đàn, hiệu là Thuỵ-hiên.
Văn-chương quán thế, ngôn-ngữ lại hoạt-bát, tính thích vui-vẻ, ông không ưa phù-hoa văn-sức, lại ghét sự bất công.
Khi về trí-sĩ, thường mặc áo vải, ăn cơm rau, giao-du với người cùng làng, không phân giai-cấp, nên ai ai cũng đều mến phục.
Một hôm, Lương cùng người làng ngồi trong một cái quán ria đường, chợt có quan huyện bản-hạt trảy qua, Quan huyện vốn có tiếng hách-dịch, nên ông bảo mọi người lánh đi, để mình ông trong quán. Quan huyện đến nơi, truyền cho lính bắt phu khiêng cáng. Lính thấy ông ngồi đấy liền tóm ngay. Ông vui lòng, ghé vai khiêng võng cho quan huyện. Đi được một quãng, gặp người quen, ông bèn nhắn rằng -: “Tôi nhờ bác bảo anh Thám-hoa làng Vân-cát gửi cho tôi vay ít tiền để tôi thuê người khiêng võng Quan huyện. Tôi đã già, sức yếu, chân chậm mà tiền không có để thuê người đi thay. Vậy bác hộ tôi nhé !”
Ông Thám-hoa làng Vân-cát nguyên là học trò Lương thế-Vinh, cho nên quan huyện nằm trên võng biết ngay là Lương, vội-vàng nhảy xuống đất, sợ thất thần, vừa run, vừa van lạy xin lỗi. Lương sẵn lòng tha thứ và răn bảo không nên cậy quyền-thế mà hống-hách với công-chúng. Quan huyện nài-xin khiêng Lương về chỗ cũ; Lương không nghe, lại đi bộ trở về làng.
Lương thế-Vinh thích kê-cứu về đạo Phật, có soạn nhiều kinh Phật, vì thế nên không được tòng-tự tại Văn-miếu. Sau khi mất, vua phong làm Thượng-đẳng Phúc-thần, hằng năm hương khói không rời.
NHẬT – NAM