“Mọi lúc mọi nơi, lạm phát luôn luôn là một hiện tượng tiền tệ”
Chính sách tài khóa trong cuộc suy thoái do virus Trung Cộng là chưa từng có. Việc Đạo luật CARES được thông qua đã bơm hơn 2 nghìn tỷ USD vào nền kinh tế. Và dường như Đạo luật CARES II sẽ tiếp tục giữ trạng thái “bơm tiền” tiếp tục hoạt động mạnh.
Tuy nhiên, để gói kích thích tài khóa có thể phát huy tác dụng như dự kiến để thúc đẩy sự phục hồi yếu ớt này, chính phủ cần có “hiệp sĩ” ứng cứu (white knight). Người đó mang hình dáng của Jerome Powell, chủ tịch ngân hàng trung ương Hoa Kỳ – Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Nếu Fed không sẵn sàng hấp thụ hết lượng trái phiếu chính phủ mới được phát hành để hỗ trợ cho khoản nợ quốc gia ngày càng lớn dần, thì tác động của chính sách tài khóa của Đạo luật CARES và có thể Đạo luật CARES II trong tương lai sẽ là rất nhỏ.
Không phải ngẫu nhiên khi chính phủ Hoa Kỳ bán trái phiếu tăng hơn 2 nghìn tỷ USD để tài trợ cho Đạo luật CARES, thì bảng cân đối của Fed cũng tăng tương ứng như vậy do họ mua tất cả các trái phiếu đó. Bằng chứng không thể nhầm lẫn này về sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ của chính phủ đã chứng minh một cách rõ ràng thuật ngữ mà các nhà kinh tế học gọi là “tiền tệ hóa nợ công”. Một phép ẩn dụ thích hợp cho thuật ngữ này là “vận hành máy in”.
Trong bối cảnh vắng bóng áp lực lạm phát hiện nay, người ta có thể tự hỏi có gì sai trái khi giữ cho cỗ máy in tiền tiếp tục vận hành. Nếu chính phủ có thể hỗ trợ tài chính trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế cùng với sự hợp tác toàn diện và thậm chí kèm theo cả khích lệ từ Fed mà không có bất kỳ hậu quả tiêu cực nào, vậy thì tại sao không làm chứ?
Câu trả lời cho vấn đề này nằm ở sự khác biệt giữa ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, đúng là trong bối cảnh quốc gia đang quay cuồng với những tác động kinh tế tàn khốc của đại dịch, chính phủ có thể chi tiêu thoải mái mà không khiến lạm phát quay đầu. Khi tỷ lệ thất nghiệp quá cao và các nhà đầu tư lo sợ về tương lai, việc bổ sung chi tiêu chính phủ đang bù trừ cho tiêu dùng tư nhân giảm đi. Mặc dù loại hình chi tiêu này thay thế loại hình chi tiêu khác, song tổng số tiêu dùng vẫn không đổi. Vì vậy, không có áp lực về giá cả. Tư duy ngắn hạn đó giải thích tại sao Fed sẽ tiếp tục cung cấp rượu cho bữa tiệc tiêu dùng của thị trường.
Tuy nhiên, về lâu dài, tình thế sẽ thay đổi. Khi quá trình phục hồi tiếp tục và virus Trung Cộng bắt đầu mờ đi trong tâm trí chúng ta, mọi người sẽ bắt đầu mở hầu bao. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm, và các nhà đầu tư nào nhìn ra được điều tuyệt diệu của mức lãi suất thấp kỷ lục này sẽ nhận thấy triển vọng cho các kế hoạch tốt nhất của mình.
Cuối cùng, khu vực tư nhân cũng tham gia cùng chính phủ trong bữa tiệc tiêu dùng, và giá cả sẽ bắt đầu tăng lên. Đó rất có thể là lúc Fed sẽ ngừng tài trợ cho bữa tiệc đó. Nhưng đến lúc đó, thường đã là quá muộn. Nhà kinh tế học vĩ đại và người đoạt giải Nobel Milton Friedman đã từng nói, “Mọi lúc mọi nơi, lạm phát luôn luôn là một hiện tượng tiền tệ”. Nhưng với tư cách là một học trò cũ của ông, tôi biết rằng giáo sư Friedman sẽ nói thêm rằng mối tương quan giữa tăng trưởng tiền tệ và tác động cuối cùng của nó lên giá cả là một mối quan hệ lâu dài và có khả năng biến đổi.
Nghiên cứu gần đây tại bộ phận nghiên cứu kinh tế A. Gary Anderson tại Đại học Chapman đã chứng minh lời ông nói. Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, đã có bốn giai đoạn mà tốc độ tăng trưởng hàng năm của tổng phương tiện thanh toán, được đo bằng M2 (là lượng tiền trong nền kinh tế gồm tiền mặt, tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm), vượt quá 13%.
Ví dụ, khi Thế chiến thứ hai sắp kết thúc, Fed đã hoảng sợ bởi những tác động tiêu cực đến nền kinh tế của việc chi tiêu quốc phòng giảm mạnh. Vì vậy, vào cuối năm 1944, Fed đã bắt đầu xả van, tăng M2 với tỷ lệ 20% cho một năm. Lúc đầu, không có gì xảy ra cả, nhưng sáu quý sau (một năm rưỡi sau), lạm phát bắt đầu tăng, với mức tăng từ khoảng từ 2.5% lên gần 20% một năm sau đó.
Để chống lại cuộc suy thoái vào đầu những năm 1970, Fed đã tăng M2 lên gần 14%. Trong cơn say tiền tệ đó, giá cả thực sự đã giảm. Nhưng chín quý sau sau khi M2 bắt đầu tăng; lạm phát bắt đầu đi lên từ mức 3% trong quý 3 năm 1972 lên đến 12% vào cuối năm 1974. Quy luật này lặp lại như vậy trong một chu kỳ giá cả tiền tệ khác vào giữa những năm 1970.
Chu kỳ thứ tư khi tăng trưởng M2 vượt quá 13% đã không xảy ra trong cuộc Đại suy thoái như nhiều người hoài nghi mà thực sự phải đợi đến năm 2020 trong những tháng đầu của đại dịch hiện tại. Nhưng khi nó xảy ra thì rất dữ dội, vì M2 đã tăng với tốc độ lên tới 20%.
Cho đến thời điểm này, cũng giống như tất cả các đợt kích thích tiền tệ cực đoan trước đây, giá cả vẫn không thay đổi. Nhưng chúng ta vẫn đang còn trong giai đoạn ngắn hạn. Một phương trình hồi quy mà ta đã ước tính từ năm 1970 đến thời kỳ hiện tại cho thấy rằng, độ trễ giữa ngắn hạn và dài hạn trung bình là chín quý. Độ trễ như vậy ám chỉ rằng lạm phát sẽ không xuất hiện cho đến cuối năm 2021 hoặc đầu 2022.
Liệu nỗi sợ hãi đó có ngăn cản Fed “vận hành máy in tiền?” Hầu như là không. Như một nhà kinh tế học vĩ đại khác của thế kỷ 20, John Maynard Keynes, đã nói, “Về lâu dài, tất cả chúng ta đều chết”.
James L. Doti là chủ tịch danh dự và giáo sư kinh tế tại Đại học Chapman.
Quan điểm được trình bày trong bài viết này là ý kiến của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.