Một số góc nhìn từ cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam trong 3 quý đầu năm 2020
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong 3 quý đầu năm 2020, tổng giá trị hàng hóa xuất cảng của Việt Nam đi các nước trên thế giới đạt 202.57 tỷ USD, tăng 4.1% so với cùng thời kỳ năm trước, trong khi tổng giá trị hàng hóa nhập cảng vào Việt Nam từ các nước đạt 186.05 tỷ USD, giảm 0.7% so với cùng thời kỳ năm trước, mang lại nguồn thặng dư thương mại 16,52 tỷ USD trong 3 quý đầu năm 2020 cho Việt Nam.
Trong bối cảnh lây lan và ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19 và những bất ổn địa chính trị đang ngày càng gia tăng trên toàn cầu từ đầu năm 2020 đến nay, cán cân thương mại Việt Nam vẫn tăng trưởng tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam có thêm nguồn ngoại tệ cho các nhu cầu của nền kinh tế cũng như bổ sung dự trữ ngoại tệ.
Cán cân thương mại của Việt Nam với Mỹ Châu là nổi bật nhất
Trong 3 quý đầu năm 2020, Việt Nam bị thâm hụt cán cân thương mại lớn nhất với các nước Á Châu (49.25 tỷ USD), giá trị hàng hóa xuất cảng của Việt Nam đi châu lục này là 99.91 tỷ USD, trong khi giá trị hàng hóa nhập cảng của Việt Nam từ các nước Á Châu là 149.16 tỷ USD.
Trong khi đó, Mỹ Châu lại là nơi mà Việt Nam thu được thặng dư nhiều nhất qua trao đổi hàng hóa, đạt 47.84 tỷ USD, hàng hóa xuất cảng đi châu lục này đạt 64.15 tỷ USD, trong khi nhập cảng là 16.31 tỷ USD. Tiếp đến là Âu Châu, nơi mang lại 19.04 tỷ USD thặng dư thương mại cho Việt Nam qua trao đổi hàng hóa.
Mặc dù chưa bắt kịp về giá trị tuyệt đối như trao đổi hàng hóa với Á Châu, nhưng điều rất đáng chú ý ở đây là tăng trưởng giá trị hàng hóa xuất cảng đi Mỹ Châu tính theo năm lại đạt vị trí cao nhất, 18.9%, vượt rất xa mức tăng trưởng giá trị hàng hóa xuất cảng đi mọi châu lục khác (chỉ tối đa là 0.7%). Đây chính là lý do mang lại sự tăng trưởng về thặng dư tăng đột biến cho Việt Nam trong 3 quý vừa qua và khiến Mỹ Châu trở thành đối tác thương mại mang lại lợi ích trực tiếp lớn nhất cho Việt Nam.
Trao đổi hàng hóa với Úc Châu và Phi Châu khá thấp (tổng trao đổi 2 chiều xuất cảng và nhập cảng dưới 10 tỷ USD) và khá cân bằng giữa 2 chiều.
Thặng dư thương mại với Hoa Kỳ đạt mức kỷ lục, thâm hụt với Trung Quốc là lớn nhất
Quan hệ thương mại với Hoa kỳ lại đang mang tới nhiều thặng dư ngoại tệ nhất cho Việt Nam trong 3 quý vừa qua, 44.36 tỷ USD, do giá trị xuất cảng đi Hoa Kỳ là 54.74 tỷ USD và nhập cảng từ Hoa kỳ về Việt nam là 10.38 tỷ USD – mức cao đột biến nhất trong bất kỳ lịch sử quan hệ thương mại song phương của Việt Nam với các nước khác (gấp hơn 4 lần thặng dư trên toàn cầu của Việt Nam trong cả năm 2019).
Ở chiều ngược lại, trong 3 quý đầu năm 2020, cán cân thương mại của Việt Nam với Trung Quốc đối mặt với thâm hụt lớn nhất, chạm tới 25.11 tỷ USD, với tỷ trọng giá trị hàng nhập cảng từ nước này chiếm 31% trong tổng giá trị, tiếp theo là với Hàn Quốc với mức thâm hụt 18.35 tỷ USD, với tỷ trọng giá trị hàng nhập cảng từ nước này là 17.8%.
Có sự tương đồng lớn giữa các ngành hàng chính xuất cảng và nhập cảng của Việt Nam
Những nhóm hàng có giá trị xuất cảng cao nhất trong 3 quý đầu năm 2020 của Việt Nam lần lượt là: điện thoại các loại và linh kiện (36.79 tỷ USD), máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (32.2 tỷ USD), hàng dệt may (22.16 tỷ USD), máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác (18.19 tỷ USD), giày dép (12.13 tỷ USD).
Các nhóm hàng có giá trị nhập cảng cao nhất trong 3 quý đầu năm 2020 lượt là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (45.08 tỷ USD), máy móc thiết bị và dụng cụ, phụ tùng khác (26.47 tỷ USD), nguyên phụ liệu ngành dệt may, da, giày (15.46 tỷ USD), điện thoại các loại và linh kiện (10.64 tỷ USD).
Như vậy, chưa kể các ngành hàng khác, ít nhất đã có 3 trong số các ngành hàng trên vừa có giá trị xuất cảng lớn, vừa có giá trị nhập cảng lớn, đó là: sản phẩm điện tử và linh kiện, máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng và dệt may, giày dép. Ngoại trừ nguyên nhân nhập cảng cùng loại với hàng hóa xuất cảng nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng ở nội địa, thì những sự trùng hợp phổ biến về các ngành hàng xuất cảng và nhập cảng này cho thấy sự phụ thuộc khá lớn của xuất cảng vào nhập cảng.
Trùng hợp ngẫu nhiên trong hoạt động thương mại giữa Việt Nam, Trung Quốc và Hoa Kỳ?
Hoa Kỳ là thị trường nhập cảng hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam với giá trị đạt 10.46 tỷ USD (chiếm gần một nửa), và là thị trường chính quan trọng nhất, mặt hàng giày dép các loại (đạt 4.51 tỷ USD). Hoa Kỳ cũng là thị trường lớn thứ 2 về nhập cảng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện Việt Nam, đạt 7.36 tỷ USD, tăng mạnh 83.2% so với cùng thời kỳ năm 2019.
Trong khi đó, Việt Nam nhập cảng từ Trung Quốc máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện là 12.08 tỷ USD, tăng 33.9%; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác 11.51 tỷ USD, nguyên phụ liệu dệt may, da, giày 7.73 tỷ USD (chiếm hơn 50%).
Một lần nữa, lại có sự tương đồng về các loại ngành hàng xuất cảng mà Hoa Kỳ là thị trường dẫn đầu và các loại ngành hàng mà Việt Nam nhập cảng với giá trị rất lớn từ Trung Quốc. Sự trùng hợp này dẫn tới một trong các giả định khá thuyết phục là một tỷ lệ lớn đáng kể giá trị hàng hóa xuất cảng đi Hoa Kỳ của Việt Nam là có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Mượn tên, đội lốt trong thương mại và FDI
Do cuộc chiến thương mại, chính phủ Hoa Kỳ đã áp đặt bổ sung các mức thuế tự vệ, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp xuất cảng lên nhiều ngành hàng nhập cảng từ Trung Quốc, từ 7.5% đến 285%, dẫn đến sự chênh lệch về thuế giữa hàng hóa từ Việt Nam và hàng hóa từ Trung Quốc nhập cảng vào Hoa kỳ.
Theo thông tin từ trang điện tử của chính phủ Việt Nam, tại cuộc họp báo chiều ngày 6/7/2020 tại Hà Nội, Tổng cục Hải quan cho biết: “Lợi dụng ưu đãi thuế quan của Việt Nam được hưởng đối với các nước ký kết hiệp định, thời gian qua đã nổi lên vấn đề lợi dụng xuất xứ Việt Nam để được hưởng ưu đãi đối với hàng hóa xuất cảng.”
Ông Nguyễn Tiến Lộc, quan chức của Tổng cục Hải quan cho biết: “Để trốn tránh hàng rào thuế quan và hàng rào kỹ thuật nêu trên, thời gian qua, xuất hiện hiện tượng hàng Trung Quốc ‘đội lốt’ Việt Nam để tìm đường xuất cảng sang Hoa Kỳ”. Ông nói thêm: “Đáng chú ý, trong số các ngành hàng của Trung Quốc bị áp đặt bổ sung thuế có nhiều ngành hàng thuộc nhóm ngành hàng Việt Nam xuất cảng sang Hoa Kỳ có kim ngạch tăng đột biến như đồ điện tử, hàng may mặc, da giày, xe đạp, đồ gỗ nội thất, mặt hàng sắt thép, tấm pin năng lượng mặt trời.”
Có 3 nhóm hàng mà 100% số doanh nghiệp được cơ quan này kiểm tra có vi phạm xuất xứ từ Việt Nam. Hình thức vi phạm có đủ loại từ làm giả giấy chứng nhận xuất xứ, đến nhập cảng bộ phận chưa lắp ráp hoặc lắp ráp bán thành phẩm về lắp ráp thành thành phẩm mà không trải qua gia công hoặc chỉ gia công rất đơn giản, không làm thay đổi bản chất hàng hóa.
Trong khi đó, theo báo cáo “Vietnam at a glance” năm 2019 của ngân hàng HSBC, những nhà đầu tư đến từ Trung Quốc đại lục, trước đây vốn chỉ tập trung vào bất động sản, thì giờ đây cũng đang chuyển nhà máy sản xuất sang Việt Nam. Sau khi xảy ra cuộc chiến thương mại với Hoa kỳ, trong năm 2019 FDI (Foreign direct investment – Đầu tư trực tiếp nước ngoài) từ Trung Quốc vào Việt Nam đã tăng 95%. Trong 9 tháng đầu năm 2020, theo thông báo hôm 25/10/2020 của Cục Đầu tư Nước ngoài, tính theo số lượng đăng ký dự án mới tại Việt nam, với 271 dự án Trung Quốc đã vượt lên vị trí thứ 2 từ vị trí dưới thứ 5 trong năm 2019 và năm 2018.
Được và mất trong thương mại quốc tế
Mỹ Châu, đặc biệt là Hoa Kỳ, đã trở thành đối tác thương mại đem lại thặng dư ngoại tệ lớn nhất cho Việt Nam. Tuy nhiên, điều quan trọng là số ngoại tệ đó góp phần cho sự phát triển kinh tế bền vững cho quốc gia và cho người dân. Hiện tượng các doanh nghiệp Trung Quốc “mượn đường” đi qua Việt Nam dưới hình thức thương mại để thu lợi cho bản thân, cụ thể là hình thức đội lốt giả xuất xứ Việt Nam, sản xuất bán thành phẩm, nhập nguyên liệu từ Trung Quốc, hoặc bằng hình thức mở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) để né thuế của Hoa Kỳ (nhằm trừng phạt thương mại đối với các doanh nghiệp Trung Quốc)… sẽ mang lại bất lợi nhiều hơn cho Việt Nam.
Về “danh nghĩa” (theo số liệu công bố chính thức), do thặng dư thương mại của Việt Nam với Hoa Kỳ đã vượt quá tiêu chí quan trọng nhất của Đạo luật Thương mại Hoa Kỳ, nên sẽ có sự gia tăng nguy cơ bị cơ quan thương mại Hoa Kỳ áp thuế chống phá giá và trợ giá.
Nhật Bản trong những năm của thập niên 90 cũng đã từng bị Hoa Kỳ áp thuế chống phá giá do thặng dư thương mại từ xuất khẩu của Nhật Bản sang Hoa Kỳ tăng vọt. Tuy nhiên, chủ yếu do hàng xuất khẩu của Nhật Bản giữ được uy tín về chất lượng với người tiêu dùng tại thị trường Hoa Kỳ nên cuối cùng đã vượt qua được những khó khăn trong xung đột thương mại giữa 2 nước và vẫn có được thị phần lớn tại Hoa Kỳ, đồng thời dòng thu nhập này trực tiếp đóng góp làm giàu cho nước Nhật và người Nhật, đưa nước Nhật nhanh chóng tiến lên vũ đài chính trị, kinh tế quốc tế.
Nếu tình huống mượn xuất xứ trên tiếp tục diễn ra, sẽ gây tổn thất lớn hơn về kinh tế cũng như uy tín cho cộng đồng các doanh nghiệp Việt Nam và người lao động Việt Nam.
Câu hỏi đặt ra rằng liệu Việt Nam sẽ lựa chọn “được” và “mất” nào cho mục tiêu phát triển kinh tế lâu dài.
Quan điểm thể hiện trong bài viết này là quan điểm của tác giả và không nhất thiết thể hiện quan điểm của The Epoch Times.