Người Mỹ đã đi đâu rồi?
VICTOR DAVIS HANSON
Những biển báo Cần người làm (Help wanted) và Hiện đang tuyển dụng (Now hiring) xuất hiện ở khắp mọi nơi. Các chuyến bay, dự án xây dựng, và dịch vụ chăm sóc sức khỏe đã bị trì hoãn – hoặc không có sẵn – do thiếu hụt nhân công.
Vòng xoáy tiền lương đang tăng theo từng giờ và từng tháng. Sự mất cân bằng giữa số lượng việc làm hiện có và số nhân viên cần để lấp vào các vị trí đó ngày càng tăng.
Điều gì đang xảy ra vậy?
Trong thời gian gần hai năm phong tỏa và suy thoái kinh tế do đại dịch COVID-19, các công ty đã cắt giảm chi phí bằng cách sa thải hàng triệu nhân viên.
Kết quả là, một số người ở đầu hoặc giữa độ tuổi 60 chỉ đơn giản là về hưu sớm và không bao giờ quay lại làm việc.
Chính phủ liên bang và tiểu bang cũng mở rộng trợ giúp tài chính cho những người thất nghiệp. Những người lao động khác cho rằng họ sẽ không kiếm được nhiều hơn nếu làm việc, và vì vậy họ đang ở nhà để nhận tiền của chính phủ.
Thậm chí, những cựu nhân viên toàn thời gian khác đã quen với lối sống mới, nhàn nhã hơn, và không muốn quay lại làm việc đủ 40 tiếng mỗi tuần.
Các nhà tuyển dụng giờ đây cũng tin rằng một cuộc suy thoái kinh tế đầy khó khăn sẽ diễn ra vào đầu năm 2023, khi hàng ngàn tỷ dollar tiền mới in đã cạn kiệt. Bây giờ, nhiều doanh nghiệp sẵn sàng chấp nhận tình trạng thiếu nhân công thay vì thuê quá nhiều nhân viên để họ nhàn rỗi khi nhu cầu của người tiêu dùng sẽ sớm suy giảm.
Hơn nữa, những người khác lo sợ về một đại dịch COVID khác và không muốn trở lại tiếp xúc hàng ngày với công chúng.
Chính phủ không biết làm thế nào mà một số người Mỹ vẫn còn triệu chứng hậu COVID kéo dài một cách bí ẩn sau một thời gian nhiễm căn bệnh này.
Hơn 100 triệu người dân Mỹ có khả năng đã từng nhiễm COVID-19. Ước tính có khoảng 10–30% không thể hồi phục được trong nhiều tháng – hoặc thậm chí nhiều năm.
Vì vậy, hàng triệu người đang bị triệu chứng COVID kéo dài vẫn không thể đi làm hoặc chỉ có thể làm việc bán thời gian.
Tuy nhiên, vẫn chưa có ai xem xét đầy đủ tác động của hàng triệu người mới bị mất khả năng làm việc này đối với nền kinh tế Hoa Kỳ.
Cộng tất cả những đám mây đen này lại, nước Mỹ đang trải qua một cơn bão hoàn hảo, trong đó chỉ có 61% lực lượng nhân công có thể làm việc chính thức.
Thật không may, cũng có những vấn đề dài hạn hơn về cấu trúc nhân công trong nền kinh tế Hoa Kỳ khiến thế hệ nhân công mới đông hơn khó có thể tham gia vào lực lượng nhân công sớm. Và hiện tại, Thung lũng Silicon chưa sản xuất được những robot thông minh nhân tạo mà họ đã hứa từ lâu – cho phép máy móc làm được nhiều việc của con người.
Đúng là có nhiều người chuẩn bị làm cha mẹ hơn bao giờ hết. Và dân số Hoa Kỳ đã tăng lên hơn 330 triệu người.
Nhưng dân số của chúng ta đang giảm mạnh.
Chỉ trong vòng 14 năm, tỷ lệ sinh đã giảm từ 2.12 xuống còn 1.64 – có nghĩa là cả công dân và người ngoại quốc đang cư trú ở Mỹ đều không có người thay thế.
Trong khi tình hình nhân khẩu trong quá khứ đã dẫn đến dân số cao nhất mọi thời đại, Hoa Kỳ đã đạt đỉnh trong số liệu thống kê. Và dân số sẽ sớm bị giảm và già đi.
Ba mươi năm trước, Hoa Kỳ có ít hơn 80 triệu dân so với bây giờ, nhưng có 250,000 ca sinh mỗi năm.
Điều gì giải thích cho sự biến mất của người Mỹ?
Về mặt lịch sử, khi các nền văn hóa phương Tây trở nên thịnh vượng và thoải mái hơn, cho dù đó là La Mã cổ đại hay Mỹ và Âu Châu thời hiện đại, thì người ta bắt đầu sinh ít con hơn – ngay cả khi khao khát có thêm gia đình và nhân công của họ tăng đột biến.
Cuộc sống được nhìn nhận là có quá nhiều thứ để hưởng thụ thay vì phải đầu tư hàng năm trời vào việc nuôi dạy con. Người dân Mỹ chắc chắn sẽ chọn kết hôn muộn hơn. Họ đang có ít con hơn – và ở độ tuổi 30 thay vì 20.
Nữ giới hiện chiếm gần 60% sinh viên đại học. Các nghề chuyên nghiệp dành cho nữ và việc trì hoãn hoặc tránh sinh con được xem là điều cần thiết cho thu nhập của gia đình tương lai.
Do nam giới bỏ qua đại học hiện chiếm 70% trong số lượng giảm ghi danh vào đại học, nên có quá ít nam giới có trình độ đại học cho nhóm đa số phụ nữ có trình độ đại học mới.
Cuộc khủng hoảng giới tính thực sự ở Mỹ chính là nam giới ở độ tuổi 20 thiếu năng động và trì trệ. Rất nhiều người vẫn đang sống ở nhà, không làm việc toàn thời gian, thường xuyên mắc nợ, mải mê sử dụng mạng xã hội, chơi trò chơi điện tử, hoặc thỏa mãn những ham mê của họ – và ít quan tâm đến việc kết hôn, chứ chưa nói đến việc nuôi dạy con.
Tổng số ca phá thai thường niên vẫn còn bị tranh cãi gay gắt. Nhưng số ca nạo phá thai được báo cáo thường niên vẫn dao động trong khoảng từ hơn 600,000 đến gần 900,000 ca.
Có thể có gần 20 ca phá thai cho mỗi 100 ca hoài thai ở Mỹ – tức 1/5.
Nền văn hóa đại chúng của chúng ta phản ánh sự miễn cưỡng ngày càng tăng của việc nuôi dạy con cái. Và hiện chỉ có 65% trẻ em lớn lên trong các gia đình có cả cha lẫn mẹ.
Quảng cáo Obamacare năm 2012, Cuộc Đời Của Julia (The Life of Julia) đã định hình về người phụ nữ Mỹ lý tưởng mới: một phụ nữ đơn thân với một đứa con, không lập gia đình, và hoàn toàn phụ thuộc vào hỗ trợ của chính phủ gần như 65 năm.
Năm 2013, quảng cáo có liên quan tiếp theo đã gây sốt khi nói về Chàng Trai Pajama (Pajama Boy). Anh này được cho là một thanh niên kéo dài giai đoạn thành niên điển hình, một đứa trẻ trong hình hài một người lớn – ngồi ở nhà trong bộ quần áo ngủ pijama giống như trẻ con và nhấm nháp ly chocolate nóng.
Pajama Boy có thể là kiểu mà Julia không có ý định kết hôn.
Có những bất lợi về lịch sử – kinh tế, văn hóa, xã hội, và quân sự – đối với các quốc gia lảng tránh việc nuôi dạy con.
Họ bị giảm dân số, tuổi tác [trung bình già hơn], không còn tin vào đấng tối cao, hầu hết đều trở thành những người theo thuyết bất khả tri hoặc vô thần, và bị ám ảnh bởi tự ngã.
Và đôi khi, cuối cùng họ trở nên rối loạn chức năng – và từ từ biến mất.
Quan điểm được trình bày trong bài viết này là ý kiến của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.
Ông Victor Davis Hanson là một nhà bình luận có tư tưởng bảo tồn truyền thống, người nghiên cứu văn hóa cổ đại, và nhà sử học quân sự. Ông là giáo sư danh dự về các về văn hóa cổ đại tại Đại học Tiểu bang California, thành viên cao cấp về lịch sử quân sự và cổ đại tại Đại học Stanford, thành viên của Cao đẳng Hillsdale, và là thành viên ưu tú của Center for American Greatness.