Nhìn qua văn học Việt nam năm 1941 (số 1)
Khái luận
Nếu tôi được phép coi văn-học Việt-nam là do một nhà văn sáng-tác, thì riêng nói về văn-học 1941, nhà văn ấy là một người trẻ tuổi đã từng sống với sầu, với mộng, với truỵ-lạc, đã sống một cuộc đời lười biếng, không có ý-thức rõ-rệt về bổn-phận…Người ấy còn đang ngồi lăn đi lăn lại trong trí cái quá-khứ nặng-trĩu những nỗi buồn, đang mơn-trớn vết thương lòng do một tình yêu để lại…bỗng giật mình vì bao nhiêu sự sụp đổ ở thế-giới.
Người ấy ngơ ngác nhìn. Bên Âu-châu từ năm 1939, cuộc chiến-tranh đã diễn và còn đang diễn một cách tàn-khốc. Một tiếng kêu chung nổi dậy : “Phải làm lại xã-hội ! phải gây lấy một tinh thần mới…”
Cả từ phương-diện vật-chất, đến phương-diện tinh-thần, nhà văn ta đứng trước một tình-thế gay go. Xung-quanh người ta xô đẩy nhau để tranh lấy sự sống-còn. Bên tai lúc nào cũng văng vẳng nghe những tiếng từ miền xa đưa lại, hô-hào phải giữ gìn sức khoẻ, phải làm việc, phải quí trọng gia-đình, phỉa tôn-thờ tổ-quốc…
Đồng thời những du-hí-trường đóng cửa, sự sản-xuất những văn-chương dâm-uế có thể đầu độc tinh thần, bị ngăn ngừa.
Dù ích-kỷ muốn vượt ra ngoài luồng sóng chung, để ra một nơi sống cuộc đời riêng của mình cũng không được.
Vì vậy, hình như người ấy đã biết tìm cách kiến-thiết lấy một cuộc đời mới thích-hợp với hoàn-cảnh. Người ấy đã bỏ bớt một vài thói quen, bớt khóc mây, khóc gió, khóc những mối tình vơ-vẩn, ca tụng những sự thèm-muốn nhỏ-nhen, đã không năng lui tới những nơi tửu điếm, ca lâu ; và đã nhảy ra hô-hào trở lại với bổn-phận từ lâu sao-nhãng…
Nghĩ đến người ấy, và những công-việc mới của người ấy, tôi có cảm-tưởng dễ chịu như có việc với một nhà văn đang muốn nỗ lực làm việc nhiều, suy-nghĩ nhiều để xứng-đáng với cái địa-vị một nhà văn được sống vào thời-đại độc-nhất của lịch-sử này. Dù đây mới chỉ là một sự cố-gắng đầu tiên.
Những xu hướng văn học
Nói rằng văn-chương là một tấm gương phản-chiếu tâm-hồn xã-hội, chỉ là nhắc lại một sáo-luận. Chúng tôi biết vây, nhưng cũng nhắc lại ; vì hơn bao giờ hết chúng tôi nhận rằng cái tâm-hồn xã-hội Việt-Nam được phản-chiếu một cách trung-thành trong văn-chương.
Chúng tôi muốn nói đến hiện-trạng cái xã-hội ở trong ấy ai ai đều cảm thấy mình có một nhiệm vụ thiêng-liêng đối với mình, với nhà, với nước.
Khác với ngày nào, hầu hết không phân-biệt tuổi, chức-vụ, cho rằng sống để tận hưởng sự sống ; thế chưa đủ, người ta còn lớn tiếng ca-tụng truyền-bá cái quan-niệm ích-kỷ ấy.
Tôi nhớ đến, với cả sự ghê-tởm, cái trào-lưu văn-chương dâm-uế đã xuất hiện trong mấy năm gần đây.
Khoảng 1936, mấy tờ báo ở Hà-nội đua nhau trình-bày những thể văn khêu tình gợi dục ; những nhà sản-xuất thứ văn ấy tự nhận cho mình cái nhiệm-vụ phơi ra ánh sáng hết những xấu-xa, truỵ-lạc của xã-hội ; những lời tư-tình của bọn cơm thầy, cơ cô, những cử-chỉ trơ-trẽn của gái giang-hồ, những hành-động hen-mạt của một lớp người mục-nát đều được dùng làm tài-liệu văn-chương. Họ đã vọng tưởng rằng có thể nói đến cái xấu để làm cho người ta sợ, mà phòng-ngừa được cái xấu. Nào ngờ họ đã làm cái công việc của một thầy lang đem lùa bao nhiêu vi-trùng vào một xã-hội, vì muốn cho xã-hội ấy quen với bệnh để tự đề-phòng !
Ngay hồi ấy, đã có những nhà văn cực-lực công-kích. Một cuộc bút chiến đã xảy ra và kéo dài đến hàng năm. Nhưng ngán nỗi, một bên số nhà văn đó ít ỏi quá, bao nhiêu nhà văn khác kéo bè, kéo đảng để chống giữ lấy một cái gì mà họ cho là sâu-xa và nhân-đạo. Thêm vào bên này cả một công-chúng suy-nhược về tinh-thần đứng làm hậu-thuẫn. Cái phái có tâm-huyết bị chế-giễu, bị coi là đạo-đức giả.
Đến 1938-39, thứ văn-chương kia vẫn sống nhưng trong một hình dạng mới : Văn-chương tài-hoa son-trẻ. Cặp mắt nhung, đôi môi mùi nho tươi, cái áo màu hoàng-yến được ca-tụng tưởng chừng như đời người chỉ có những thứ đó là thiêng-liêng nhất.
Ngày nay người ta đã lượng được cái nguy-cơ của thứ văn-chương ấy ; đã phải phàn-nàn về nhũng cuộc đời tình-cảm hỗn-độn, những sự uỷ-mị suy-nhược đáng thương ; và người ta đã rẻ-rúng rồi thẳng tay bào-trừ.
Đồng-thời chính-ohur không ngần-ngại ra lệnh cấm tiệt loại sách khiêu-dâm chỉ có cái công-dụng gieo mầm truỵ-lạc vào óc độc-giả.
Bước vào năm 1941, không thấy trưng bày những tiểu-thuyết một loại với “Người đàn bà trần truồng”, “Khi chiếc yếm rơi xuống”, “Sự động cỡn của đàn bà”…
Những chỗ đáng chú-ý trong các tủ sách đã được dành riêng cho những sách đứng đắn có cái công dụng chữa lại những tâm bệnh do những sách nhảm nhí gây nên.
Chúng tôi sẽ giở lại với những quyển sách này. Văn chương dâm-uế vừa nói trên biểu-hiện sự truỵ-lạc về vật-chất nhiều hơn là về tinh-thần.
Đi đôi với nó, một thứ văn chương khác phát-triển, biểu-hiện của sự truỵ-lạc hoàn-toàn về tinh-thần. Tôi muốn nói đến những truyện tình vơ-vẩn, những văn thơ sầu thảm, những tiểu-thuyết ca-tụng những tự-do không biên-giới.
Tôi dám chắc bạn đọc, dù có cái trí nhớ bạc-nhược đến đâu, cũng chưa quên được bao nhiêu những truyện tình kể bằng những lời sáo cũ, nhắc lại những truyện không bao giờ có thể có thực nhưng người ta cũng đặt ra để đầu độc những bộ óc non nớt.
Tôi còn nhớ, ở trong Nam, có lần tôi được đến thăm một người đang theo ban Trung-học, ở một trường công nọ. Người ấy chưa quá hai mươi tuổi. Vì biết tôi là một người thường để ý đến văn-chương, cậu học-sinh ấy dẫn tôi vao phòng học, chỉ cho tôi xem một tủ sách gần đầy, quyển nào quyển ấy đóng bìa da chữ vàng rất đẹp.
Các bạn có tưởng-tượng những sách gì đó không ? Không phải những sách cổ-điển có trong chương-trình ban Trung-học ; không phải những quyển có giá-trị của những thư-cục đứng-đắn. Nhưng chỉ những truyện tình là truyện tình ! Đọc đến cái tên tôi đã phải rùng mình : nào là những tập thơ khóc gió than mây, “anh anh, em em”, “sầu sầu, mộng, mộng”. Nếu không thì cũng phải là một tiểu-thuyết có luận-đề hô-hào sự giải phóng nọ, cổ động sự tự-do kia.
Tôi không muốn viết thêm nữa. Hôm nay tôi không muốn giở lại kết án một số sách nói riêng về phương-diện đạo-đức, đã có tội đối với sự kiến-thiết xã-hội.
Tôi không muốn giở lại xéo lên một cái xác chết. Phải, sang năm nay, nhìn xa, tôi đã thấy thứ văn-chương ấy chết hẳn rồi.
Những người có cái trách-nhiệm về sự giáo-dục sẽ không phải lo-lắng nhiều về sự đọc sách của cậu học sinh kia nữa.
Cái phong-trào đọc tiểu-thuyết kiếm-hiệp cũng thấy bớt bồng-bột. Đó là một sự tự-nhiên. Ngày nào trên báo chí , người ta cũng được nghe những truyện chiến-tranh kinh thiên động địa ; những chiến xa phun lửa, những đống địa-lôi có kém gì những chuyện Phong-thần ; người ta đã có một tiểu thuyết sống để đọc, cần gì phải có những chuyện hoang-đường làm đồ ăn cho trí tưởng-tượng của người ta nữa.
Và trong năm 1941, những nhà văn “đứng-đắn” không phải nhọc công kêu gọi lòng nhân-đạo của những nhà xuất bản và những người viếtđã đầu độc óc khoa-học của mấy lớp người.
“Tôi tưởng người Việt-nam ta ngày nay, sống giữa tình-thế này, không nên mơ-màng những sự viễn-vông, mà chỉ nên vun đắp thế nào để giữ cho được cái “gốc” của ta. Công-việc chưa thể có kết-quả tức khắc, nhưng ngày sau…biết đâu ngày sau cái gốc ấy chẳng mọc chồi nẩy lộc rồi đâm lá, trổ hoa”.
Trên đây là mấy lời chúng tôi đã được Trần Trọng-Kim tiên-sinh cho nghe trong một câu chuyện văn chương. Câu này có lẽ tiên-sinh, cùng với mấy bực đàn anh trong làng đã lẩm-nhẩm từ lâu và hình như chúng tôi cũng đã được nghe nhiều lần, nhưng cũng như tiên-sinh đã nhắc lại, chúng tôi muốn nhắc lại một lần nữa để có dịp giở về với sự lãnh đạm của một số người đối với văn-chương ta.
Mà chúng ta không phải đi xa. Ngày hôm qua đây còn có một phần đông thuộc phái tân-tạo cho việt-ngữ là một thứ tiếng độc âm, nghèo về mọi phương-diện, không xứng đánh đứng bên cạnh những thứ tiếng đẹp-đẽ của các nước văn-minh. Những nhà văn ta bị họ coi là một bọn sơ đẳng nếu không làm công-việc có cái tên to tát là phụng sự -văn thì cũng không biết làm gì nữa.
Giữa lúc ấy văn-chương nước mình đanh chờ đợi họ. Người ta bảo có lẽ rồi đây, sau ba mươi năm nữa sẽ có rất nhiều những tiến-sĩ văn-chương, thạc-sĩ về sử-học và địa-dư-học mà tiếng ta cũng vẫn chưa có một cuốn sử và cuốn địa-dư nước ta viết bằng tiếng nẹ đẻ !
Cái tình-trạng văn-học mà tôi vừa phác ra đây, chỉ là một cái gì đã qua rồi. Lịch sử đã muốn có những con đường quành rất ngạc-nhiên.
Nếu tôi không nhầm thì hình như bắt đầu từ năm 1940 sau bao nhiêu do-dự người ta đã biết trở lại với “cái gì thật á-đông”
Trước khi giải thêm, tôi xin đem hết danh-dự của một ngòi bút trong sạch để bảo-đảm cho sự thành thực của những lời tôi sắp nói tp ra đây tuy đáng lẽ tôi chỉ được nghĩ thầm mà thôi.
Mỗi khi tôi qua một hiệu sách tôi thấy những tập sách học chữ nho bày trên những chỗ danh-dự trước kia để riêng cho những tiểu-thuyết ngôn tình, những tập thơ lãng-mạn.
Những người thức giả vẫn thường nhận rằng đã là một người Việt-nam cần phải biết ít nhiều chữ nho như người Pháp cần phải biết ít nhiều chữ Latin. Biết chữ nho để gây lấy ở mình cái tinh thần không vong bản, để biết lịch-sử, hiểu văn-hoá chương nước nhà v.v…Không có thứ chữ ấy, ta có thể gọi là người không có căn bản vậy….
Còn hạng tuỳ lưu trục ba, có kể làm gì.
Có điều đáng mừng là năm vừa rồi, nhiều người vốn có tâm-huyết đối với quốc-văn, đã làm được nhiều công-việc từ-ngữ đáng chú-ý. Tôi muốn kể những cuốn như Việt-năm văn phạm của ông Lê Thần Trần trọng-Kim (có sự giúp sức của các ông Bùi-Kỷ và Phạm duy Khiêm), tập Dạng-bảng văn-pháp của ông Vệ-Thạch Đào duy-Anh.
Chúng tôi lại còn được biết trong năm vừa qua đã có nhiều văn-học bắt tay vào soạn những bộ từ điển rất lớn, và có giá trị, nếu xong có thể giúp ích cho văn-học ta rất nhiều.
Những công việc đã có sự hoàn thành hay còn đang trong thời kỳ tiến-hành tôi vừa kể có thể nói là còn rất ít.
Tuy vậy nó có thể là một cái mầm, những cái triệu-chứng của một trào-lưu văn-học mới mà chúng ta sẽ được đón lấy : phụng-sự từ ngữ Việt-nam.
Sang năm tới đây, nếu sự phỏng đoán của tôi không đúng, tiếng của mình vẫn bị người mình rẻ rúng, làng văn ta chẳng được nhận của ai một công-trình từ-ngữ có giá-trị, mong bạn đọc cũng lượng cho và coi những lời tôi viết năm nay đây như những lời của một người thiết tha mong người mình mau trở lại với tiếng của mình mà từ trước đến nay phần đông hãy còn ra chiều ghẻ-lạnh !
(Còn nữa)
LÊ-THANH