Những ông nghè triều Lê (số 11)
Bia khoa mậu-thìn năm Thái-hòa thứ sáu (1448) đề tên ba người đỗ đệ nhất giáp, tiến-sĩ cập đệ: một là Nguyễn nghiêu-Tư, hai là Trịnh-thiết Trường, ba là Chu-thiâm-Uy.
1 Nguyễn Nghiêu Tư
Tên tự là Quân-trù (?), hiệu là Tùng-khê, người xã Phù-lương, huyện Võ ninh (Võ-giàng), phủ Từ-sơn. Học Cúc-pha tiên sinh là Võ-mông Nguyên, người Đông-sơn. Đỗ thái học-sinh triều nhuận Hồ (1400-1407), làm giáo-thụ ở kinh-thành. Đỗ trạng-nguyên khoa mận-thìn (1448). Năm ấy là năm Thái-hòa thứ sáu, vua Lê Nhân-Tôn (1442-1459) “nằm mộng thấy lợn đỗ trạng-nguyên. Kịp lúc treo bảng ông đỗ đầu, vua hỏi mới biết ông đẻ tháng hợi năm hợi, bố đặt tên là Trư, nghĩa là lợn. Đời bấy giờ có câu: Long-đầu trư, Nguyễn-nghiêu-Tư” (theo quyển Đại-Việt đỉnh-nguyên phật-lục, sách viết của Bác-cổ, số A 1205, tờ 10b). Lúc mới làm Hàn-lâm trực-học-sĩ, sau thiên làm An phủ-sử ở Tân-hưng thượng-lộ (nay là Tiên-hưng). Khi Lê-nghi-Dân (1459) cướp ngôi, triều đình sai ông làm chánh-sứ sang nhà Minh cầu phong. Làm quan đến chuởng lục bộ thượng-thư. Nay còn hai bài thơ cận-thể chép trong Toàn-Việt thi-lục (sách viết của Bác-cổ, số A 1262, quyền 10, tờ 13a). Đề là Thạch bút dả, Đề Kim-âu sơn tự (chép theo Đăng khoa lục, q.1, tờ 6a, Lê triều lịch khoa tiến sĩ đề danh bi ký q.1, tờ 10a. Thiên-Nam lịch triều liệt huyện đăng-khon bị khảo, tờ 2a, Đại-Việt đỉnh-nguyên phật-lục, tờ 10b, Toàn- Việt thi-lục, q. 10. tờ 13a).
2 Trịnh Thiết Trường
Đã có tên ở bia khoa nhâm-tuất (1442. xem Tri-tân, số 29, trang 4), người xã Đông-lý, huyện Yên-định, phủ Thiệu-thiên. Hai mươi năm tuổi đỗ đệ-tam giáp đồng-tiến-sĩ xuất thân khoa nhâm-tuất. Năm Đại-bảo thứ ba (1442). Nhưng giận không được đỗ tiến-sĩ cập-đệ, bảo anh em rằng: “Ta muốn nhất giáp đề danh, nếu tam giáp thì chưa hết sức học của ta” bèn xin thôi về. Đến năm Thái-hòa thứ sáu (1448), khoa mậu-thìn quả đỗ thứ nhì đệ nhất giáp, tức là bảng-nhỡn. Lấy Thụy-bảo công-chúa. Năm kỷ-tỵ (1449), làm trung-thư xá-nhân, sang An-phủ-sứ ở Thanh-hóa nam-1ô. Khoảng năm Diên ninh đinh-sửu (1457), mùa thu, làm quan Thị-giảng, vâng mệnh đi phó-sứ sang nhà Minh mừng vua Anh-Tôn, Năm Quang-thuận đinh-hợi (1467), thăng Thị-thư học-sĩ, Lại-bộ đô-cấp-sự| trung, quyền Công-bộ hữu-thị-lang. Làm đến Công-bộ thượng-thư, rồi về trí-sĩ. Được phong Nghi-quận công. Có ruộng ở trại Văn-quán, huyện Thanh-oai, dân thờ làm phúc-thần (chép theo Thiên-Nam lịch-triều liệt huyện đăng-khoa bị khảo của Phan-hòa-Phủ biên-tập và Phan-huy-Sảng tuân-đính, sách viết của Bác-cổ, số A485, Thu tập hạ, tờ 24b).
3 Chu Thiêm Uy
Người xa Hương-quất (vỗ-đoan), huyện Tứ kỳ, phủ Hạ-hồng. Đủ thứ ba đệ nhất giáp tiến-sĩ khoa mậu-thìn (1448). Lúc mới làm Trung-thư xá nhân, sau làm đến An-phủ-sứ (chép theo Đăng khoa bị-khảo, Hải-dương, tờ 42a).
Cung khoa mậu-thìn (1448) đỗ mười hai người đệ nhị giáp, “tiến sĩ xuất-thân”.
1 Nguyễn-Mậu, người xã Bích-du, huyện Thụy-Anh, phủ Thái-bình. Lúc mới làm Khởi-cư xá-nhân, rồi sung Chuyển-vận-sứ ở huyện Lập-thạch. Năm Quang-thuận giáp-thân (1464) thăng Hình-bộ thị-lang. Vì hết lòng can vua, được khen thưởng. Quyển Nhâm-định Việt-sử thông-giám cương-mục (q.19, tờ 15a) chép: “Năm Quang-thuận thứ nhất (1460) vua Lê Thánh-Tôn (1460-1497) dụ quần-thần rằng: “Lũ Lê-cảnh-Iluy, Nguyễn như-đỗ, Pham-Du đều là người a du cẩu duyệt (nịnh-hốt vô-vập hão), việc nghị-luận ở miếu-đình thì im lặng không nói. Duy có lũ Nguyên Mậu, Trần-Thốc, Nguyễn-Thiên là người ưu-quân ái-quốc, gặp việc gì trái đều hết lòng can-ngăn. Hôm nọ Nguyễn-Mậu nói một việc không thực, trẫm không dùng luật-pháp để trị tội, muốn đền công cho”, Nguyễn-Mậu trải sáu đời vua. Nam Hồng-đức nhâm-thìn (1472), thăng Ngự-sử-đài đô-ngự-sử tri từ-tụng Người đương thời khen là thanh liêm thẳng-thắn (chép theo Đại Nam nhất thống chí (đời Tự-đức), Nam-định, tờ 22a, và Thiên-Nam lịch-triều liệt-huyện đăng khoa bị khảo, Thái-bình, tờ 1a).
2 Dương chấp Trung, người xã Sài-xuyên (theo Đăng-khoa-lục. q. 1, tờ 6 b trong Đăng-khoa bị khảo, thu tập trung, tờ 50b, viết là Lạc-xuyên), huyện Kỳ-hoa, phủ Hà-hoa, Đỗ năm hai-mươi-nhăm tuổi (Đăng-khoa-lục, q1, tờ 6a, viết là ba-mươi-nhăm tuổi). Lúc mới làm Khởi-cư Xá-nhân, rồi thiền làm thừa-tuyên ty Tham-chính ở Quốc-oai. Đến năm Quang-thuận đinh-hợi (1467) thăng Đạt-lý tự-khanh, quyền Hữu-thị-lang bộ bình, Khoảng năm kỷ sửu (1469), cha mẹ được sắ phong, lúc ấy năm-mươi-sáu tuổi ( thiên-nam lịch-triều liệt-huyện đăng-khoa bị-khảo, Thu-tạp trung, tờ 50b).
3 Trịnh-Kiên, người huyện Vĩnh-ninh, phủ Thiệu-hiên, làm quan đến Trực-học-sĩ, vâng mệnh đi sứ Chiêm-thành (Đăng khoa lục, q.1, tờ 6 a).
4 Phạm-đức-Khản (viết theo bia văn-miếu và Đăng khoa lục, q.1, tờ 6b; trong thiên-nam lịch-triều liệt-huyện đăng-khoa bị-khảo Hải dương, tờ 18b viết là Nguyễn đức Khẩn xã Hội am, huyện Vĩnh-lai, phủ Hạ-hồng, làm quan đến Tả-thị-lang.
5 Nguyễn Vĩnh-Tích (viết theo Việt-sử cương-mục, q.17, tờ 11a, và Đăng khoa bị-khảo, Sơn-nam, tờ 20b; trên mặt bia văn-miếu thì khắc là Nguyễn đình Tích) người xã Thanh-oai, huyện Thượng-phúc, phủ Thường-tín. Năm Diên-ninh đinh-sửu (1457) làm Trung-thư khởi-cư xá nhân, vâng mệnh đi phó-sứ sang nhà Minh mừng vua Tàu lên ngôi. Năm Quang-thuận quí-muì (1463), thăng Hàn-lâm thừa-chí học sĩ, tri đông-đạo quân-dân bạ tịch, rồi thăng Binh-bộ thượng thư. Năm đinh-hợi (1467) bị tâu càn, phải về. Việt sử cương-mục (q.17, tờ 11a) chép: Năm Thái tôn Thiện-bình thứ tư (1437), có một người thợ tên là Cao-Liệt tiến hai thứ mũ làm bằng cỏ, xin mộ dân vào làm mũ “quan-tác-cục” Thị ngự sử Nguyễn-vĩnh-Tích can rằng “Các bậc nhân-quân xưa kia không lấy nghề lạ và khéo làm quí”. …
(Còn nữa)
Ứng hòe NGUYỄN VĂN TỐ