Những ông nghè triều Lê (số 12)
6 – Nguyễn Bá Kỷ
Người làng Văn nội (chép theo Đăng khoa lục , tờ 6b, và Việt-sử cương mục, q.18, tờ 28a, còn Đăng khoa bị khảo, Sơn-nam, tờ 40 b và Lịch-triều hiến chương, q.11. tờ 4a, thì viết là Huân-nội), huyện Chương-đức, phủ Ứng-thiên, đỗ hoàng giáp khoa mậu-thìn, năm Thái-hòa thứ sáu (1448) đời vaa Nhân-tôn, Bắt đầu làm chức Tri-chế-cáo viện Hàn-lâm, rồi thăng Trực-học-sĩ. Mùa đông năm nhâm-thìn(1452), làm phú-sứ sang nhà Minh mừng Vua Tàu lập thái-tử. Khi đi sứ về, được thăng chức Trung-thu sảnh tả-ti, đồng tri Hải-tây đạo quân-dân bạ tịch, vào chầu tòa Kinh-diên (là chỗ giảng sách đề vua nghe), kiêm-quản chức Cận thị-hậu các-cụ thượng-kỵ đô úy. Đến đời vua Thánh-Tôn (1460 1497) lên ngôi, vì ông là người văn học, nên được gần vaa. Đầu năm Quang-thuận (1460) vưng mệnh cùng ông Nguyễn Trực soạn bia Dương-lăng, lại vâng chỉ dụ xét định miếu húy ngự-danh. Thăng chức tế-tửu nhà Quốc-tử-giám, kiêm văn-minh-điện đại-học-sĩ, thượng thư quận-công-tước, ra vào chốn cung-điện, được vua quí-trọng, bạn hiệu “Vân-phong tiên-sinh”. Vua làm văn thường ra ngoài kinh-sử, ông dâng sớ can ngăn, vua giáng chỉ khen lao. Mùa đông năm Ất-dậu mất (2465). Vua sai quan tư-lễ đem sắc-dụ đến tế, trong có câu ra rằng: “Nhĩ sự thượng dã trung, trì thân dã chính, đán tịch tả hữu, vu tư lục nhiên, khí cơ tuyệt thời, trung trinh vị dĩ” nghĩa là: (Ngươi thờ vua rất trung, giữ mình rất chính; lúc sớm lúc tối, bên tả bên hữu, đến nay sáu năm; hơi thở gần tắt, lòng trung hay còn” , Bộ Toàn-Việt thi-lục (sách viết bằng chữ Hán của Trường bác-cổ, số A 1202 quyền 10 tờ 18a) của ông Lê-quí-Đôn còn sao lại một bài thơ cận-thề của ông Nguyễn-bá-Ký, đề là Quá nhuận Hồ cựu-đô hoài-cổ (Qua thành đô cũ nhà Hồ). Ông Nguyễn-bá-Ký là anh ông Nguyễn-bá-Kỳ (anh em làm quan cùng triệu) và là ông ngoại Trần Phi (sẽ nói sau; chép theo Lịch triều hiến chương, Q.11, tờ 4, Đăng-khoa bị khảo, Sơn-nam, tờ 46 b).
7 – Nguyễn Di Quyết
Người làng Trung thanh-oai huyện thanh-oai, phủ Ứng thiên. Lam quan đến tả thị lang ( Đăng khao bị khảo, Sơn-nam tờ 32a )
8 – Đặng Tuyên
Người làng Bình lăng, huyện Thiên thi, phủ Khoái-châu, đỗ hội-nguyên khoa mậu-thìn (1448), Thì đình đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ. Lúc mới làm Hàn-lâm-viện đãi-chiếu, sau thăng làm thừa-chỉ (Đăng-khoa bị-khảo, Sơn-nam, từ 70 b).
9 – Bùi Phúc
Người làng Lam-điền, huyện Chương-đức, phủ Ứng-thiên. Lúc mới làm Quốc-tử viện, đồng-tu sử. Là em Bùi-Hựu: anh em cùng triều (Đăng-khoa bị-khảo Sơn-nam, tờ 47 a).
10 – Nguyễn Văn Chất
Người làng Võ-thái, huyện Bạch-hạc, phủ Tam-đai. Hai mươi bảy tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến-sĩ khoa mậu-thìn (1448). Khoảng năm Quang-thuận bính-tuất (1466) làm tham chính Nghệ-an; không được bao lâu được cất lên làm đô ngự-sử. Khoảng năm Hồng-đức canh-tý (1480) làm chánh-sứ sang cống nhà Minh, Sau làm đến Hộ-bộ thượng thư, rồi về tri-sĩ. Có soạn quyển Tục Việt-điện u-linh. Sinh ra Nguyễn-văn-Tú: phụ tứ đăng khoa (Đăng-khoa bị-khảo, Thu tập thượng, tờ 60a).
11 – Phan Hoan
Người làng Lát-sài, huyện Ninh-sơn, phủ Quốc-oai (Đăng-khoa bị-khảo, Thu tập thượng, tơ 35b, chép là huyện Yên-sơn). Đăng khoa lục (từ 7a) chua một câu rằng: “Người ở chỗ này (Lật-sái) nói: Ông Phan-Hoan chưa kịp vinh qui về làng đã mất. Người châu xa cũng nói: Đăng khoa lục chép ông làm quan đến đồng-tu sử viện là chép nhầm”. Đăng khoa bị khảo (sách viết của trường bắc cổ, số A485, thu tập thượng tờ 35b, Phan-hòa-Phủ biên-tập, Phan-hay-Sáng tuần đính) cũng chép “ông ba mươi mốt tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ khoa mậu-thìn năm Thái-hòa thứ sáu (1448); lúc mới làm đồng-tu quốc-sử, rồi làm đến an-phu đại sứ, hưởng thọ sáu mươi năm tuổi, về tri-sĩ, rồi mất”
12 – Nguyễn Thúc Thông
Người làng Quế-dương, huyện Đan-phượng, phủ Quốc-oai. Ba mươi tư tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến-sĩ khoa mậu-thìn (1448). Lúc mới làm đồng-tu quốc-sử, sau làm đến tham-chính ông là tổ ba đời ông Nguyễn-quang-Sạn; ông cháu dỗ cả.
(Còn nữa)
Ứng-hòe NGUYỄN-VĂN-TỐ