Những ông nghè triều Lê (số 14)
Nếu cứ ba năm một kỳ thi, thì sau khoa Thái-hoà thứ sáu 1448 đến khoa Thái-hoà thứ mười một 1453. Nhưng hai khoa này đều không thấy bia, chỉ thấy quyển đăng khoa lục chép khoa Thái-hoà thứ 11 như sau này. Quyển việt sử cương mục không chép cả hai khoa, chỉ nói năm 1449 đổi lại cách thi lại (thi lại pháp, ở quyển 18, tờ 14a) và cấp sái phi cho văn miếu và học hiệu các bộ (quyển 18 tờ 19a). Vậy đành phải kê cứu ở quyển Đăng khoa mục và quyển Đăng khoa bị khảo. Theo hai quyển này thì khoa Thái-hoà thứ 11 là khoa qúi dậu 1453, đỗ đệ nhị giáp tiến-sĩ xuất-thân mười người :
1 – Võ Bá-Triệt, người xã Thái-bạt, huyện Bất-bạt, đỗ năm hai mươi nhăm tuổi. (Đăng khoa lục, q1 tờ 8a ; Thiên nam lịch triều liệt truyện Đăng khoa bị khảo, thu tập thượng, tờ 2b)
2 – Phạm Bá Khuê, người xã Nhân lí, huyện Thanh lâm phủ Nam sách, đỗ năm hai mươi nhăm tuổi, là tổ Phạm-Dương, tằng tổ Hưng-Nhàn, Khắc-Minh và Văn-Tuấn. Làm quan đến thị lang. Năm Quang Thuận giáp thân 1464 đi sứ sang nhà Minh tiến hương (đăng khoa lục, q.1, tờ 8.a, Đăng khoa bị khảo, Hải Dương, tờ 56a)
Nguyên “trước kia nhà Minh sai chánh sứ là Thượng-bảo-tự khanh Tô lăng Tín, Hành-nhân ty hành nhân là Thiêu-Chấn sang nước ta báo vua Hiến tôn lên ngôi, ban sắc-dụ và mũ-áo tơ-lụa. Năm Quang-thuận thứ năm 1464 vua Lê-Thánh-Tôn (1460-1497) sai Phạm bá Khuê sang Tàu tiến hương, Lê hữu Trực, Dương-Hải, Phạm khánh Dung mừng vua Tàu lên ngôi, Phạm Cư, Trần văn Thân tạ việc cho tơ hạ” (Việt sử cương mục, quyển 19 tờ 27b)
3 – Dương tôn-Hải (Đăng khoa lục, q.1, tờ 8a, và Việt sử cương mục, q.19, tờ 27b,) chép là Dương Hải, Việt sử cương mục lại chua nhầm là đỗ tiến-sĩ khoa mậu thìn năm 1448, người xã Mi sơn huyện Thủy-đường; ngụ ở Ninh Sơn, Ninh giang, Đông ngán. Nguyên tên là Mỗi (Đăng khoa bị khảo viết là Cao,) vua Lê nhân-Tôn 1442-1459 đổi tên cho là Hải. Năm Quang thuận giáp thân 1464 làm phó sự sang nhà Minh (xem số 2, trên kia, truyện ông Phạm bá Khuê); khi đi sử về, thăng Thiêm đô ngự sử. Năm định hợi 1467 thăng đô cấp-sự-trung, quyền thượng-bảo tự-khanh. Cùng với tả thừa là Khiên nhân Thọ dạy Mã quân đọc sách (Đăng khoa bị khảo, Hải dương, tờ 93a).
4 – Nguyễn-Từ, người xã Sơn-đông, huyện Lập-thạch, đỗ năm hai mươi năm tuổi, làm quan đến Thiêm đô ngự sử (Đăng khoa bị khảo, thu tập thượng, tờ 54 b.)
5 – Nguyễn-Phực, người xã Đoạn-tùng (Đoạn lâm,) huyện Gia lộc, Trường tân, phủ Hạ hồng. Lúc vua Lê Thánh-Tôn (1460-1497) chưa lên ngôi, ông làm tiềm long thần, nghĩa là làm bày tội từ lúc vua chưa lên ngôi, còn ở nhà “phiên-đề”. Năm Quang thuận canh thìn 1473 làm phó sứ sang nhà Minh, lúc về làm tham-nghị chính sự. Coi điện thi khoa quí mùi 1466 mùa hạ, thiên làm thừa tuyên tham-chính ở Thanh hóa, kiêm vương-phó, rồi đổi làm cẩm-y vệ đô chỉ huy sứ (Đăng khoa bị khảo, Hải dương, tờ 35b). Năm Hồng đức tân mão 1471, vua Thánh tôn đi đánh chiêm-thành, lấy ông làm đốc lương, gặp gió sai hẹn xin cam chịu phép quân, sau phong làm phức thần, có miếu thờ ở của bể Đà-nẵng. Sinh ra Nguyễn Đạm, phu tử đăng khoa (Đăng khoa lục, q.1, tờ 8b.)
(Còn nữa)
Ứng hòe-NGUYỄN VĂN TỐ