NƯỚC NAM TA VỀ ĐỜI TIỀN LÊ (Theo tờ tấu của sứ Tàu)
Sử cũ chỉ chép việc chính – biến, cuộc chiến – tranh và các triều vua, ít khi chép những việc quan – hệ đến dân chung, như kế sinh – hoạt, cách làm nhà, lối ăn mặc cũng như phong tục, tập quán trong gia – đình và xã – hội.
Phải sưu – tập những tờ tấu của sứ thần, những bài ký của du khách thì họa may mới đủ tài liệu để chép lịch – sử, văn – hoá đời xưa. Chỉ hiềm có một nỗi là hạng sử – liệu này chưa được tìm mấy, phần nhiều lại không lấy gì làm chắc chắn cho lắm: tờ tấu thì hay thiên, bài ký thì hay tô – điểm, phê – phán rất khó. Nhưng cũng nên dịch ra để biết đại – khái cái tình hình nước ta ngày xưa ra làm sao.
Như tờ tấu của Tống – Cảo dịch dưới đây, trừ những thiên kiến của sứ Tầu không kể, cũng có một vài đoạn, tưởng nên chú ý. Nguyên văn chép trong bộ Văn – hiến thông – khảo, quyển 330, trang 19b – 20b. Ông d’Hervey de Saint – Denys đã dịch ra chữ Pháp, đề là Ethnogra – phie des peuples étrangers à la Chine, ouvrage composé an XIIIe siecle de notre ère par Ma Touan – Lin (Phong tục những dân khác dân Tầu. Sách của Mã Đoan – Lâm làm về thế kỷ thứ mười ba sau kỷ nguyên), in ở thành Paris, nhà Leroux năm 1883. Nhưng ông d’Henrvey de Saint – Denys dịch sai lắm (xem bản dịch tờ tấu của Tống – Cảo ở quyển Merid o – naux, dân miền Nam, trang 316 – 320).
Trước khi đem dịch lại ra quốc – văn, xin nhắc rằng hồi Tống – Cảo dâng sớ tâu vua nhà Tống, thì vua Lê Đại – Hành (Tức là Lê – Hoàn, 980 – 1005) đang trị vì nước ta, mấy năm trước đã lập nên sự nghiệp hiển hách, đánh đuổi được quân Tầu, giữ vững được xã tắc, theo tờ tấu của Tống – Cảo lại có tài về thuật ngoại giao nữa.
Tờ tấu như sau này:
“Cuối mùa thu năm ngoái (vào khoảng năm 898), chúng tôi ( là lũ Tống Cảo) đến cõi Giao – Châu. Lê Hoàn sai lũ Đinh thừa Chính làm nha nội đô chỉ huy sứ chở chín chiếc thuyền và ba trăm quân đến đón ở cửa bể Thái Bình. Tự ngoài bể vào trải bao nhiêu sự nguy hiểm sóng gió .
“Nửa tháng mới đến sông Bạch – Đàng, theo đường tắt ở vùng bể vào, nhân nước triều lên mà đi.
“Phàm những chỗ nghỉ đêm đều là ba gian nhà tranh mới làm, gọi là “quán – dịch” (nhà trạm).
Đến Trường – châu, gần nước Nam, Lê – Hoàn trang hoàng sằng, đem hết cả thuyền chiến ra nói là “diệu quân” (Chắc độc giả cũng nghĩ thầm rằng: Nếu không giỏi, thì sao năm Tân Tị (981) lại đuổi được quân nhà Tống.
“ Từ đây, đêm theo ven bể đi đến Giao Châu, độ mười lăm dặmcos năm gian đình cỏ tranh đề là “Mao kính dịch”. Còn một trăm dặm nữa đến thành (Hoa Lư), đuổi những gia súc sản của dân ở chỗ ấy ra, nói là trâu của quan: số không được một nghìn, dương danh nói mười vạn con ! lại đem bao nhiêu dân ra, lẫn với quân lính, mặc áo tạp sắc, cưỡi thuyền đánh trống reo hò !
“Đến núi ở gần thành, vờ treo cờ trắng để làm cảnh tượng dàn quân.
“Chợt thấy Lê – Hoàn đến làm lễ giao nghênh, nép ngựa nghiêng mình, hỏi Hoàng – thượng ngọc thể có được an khang không. Xong dắt cương ngựa cùng đi, lấy trầu cau mời ăn ở trên lưng ngựa: đó là phong tục đãi khách.
“Trong thành không có dân ở, chỉ có vài mươi trăm nóc nhà tranh, dùng làm trại lính, mà ở phủ thự có ao tràn nước, đề ở cửa là “Minh đức môn”. (Những tên này cũng đủ chứng rằng cách đây độ một nghìn năm, Hán học ở nước ta đã tới một trình độ cao).
“ Hoàn là người quê kệch ! , mắt lim dim, tự nói năm vừa rồi cùng giặc mán đánh nhau, ngã ngựa đau chân, nhận tờ chiếu không lễ được. (Sứ – thần không dám tâu rõ, nhưng thế nào cũng nói thầm rằng: Láu lớ !)
“ Sau vài đêm, làm việc uống rượu vui – vẻ, lại ra ngoài cũng vui chơi, tiếp khách. Hoàn đi đất, cầm cần câu lội xuống nước câu cá ; mỗi khi câu được một con cá, bên tả bên hữu đều nhẩy lên, reo hò vui vẻ.
“Phàm có người nào dự yến hội, sai bỏ đai ra, đội mũ. Hoàn mặc nhiều áo sặc sỡ và áo đỏ ; mũ lấy ngọc chân – châu trang sức vào: tự hát uống rượu, chẳng ai hiểu là hát gì.
“Thường sai vài mươi người mang con rắn to, dài vài trượng để làm lương – thực cho sứ – quán, và hỏi nếu ăn được món ấy, sẽ bảo làm cơm thiết. Lại buộc hai con hổ, đưa cho để lúc nào muốn xem thì xem. Đều khước không nhận.
‘Sĩ – tốt độ ba nghìn người, đều viết chữ vào trán là “Thiên – tử quân” ; ngày lượng cấp thóc lúa cho, soi tự giã lấy mà ăn. Đồ binh khí chỉ có cung, nỏ, mộc – bài, giáo gỗ, giáo tre, yếu ớt không thể dùng được ! (Thế sao sử lại chép chém giết được quá nửa quân nhà Tống?)
“Hoàn người khinh – thoát tàn nhẫn, thân cận với những kẻ tiểu nhân, lấy bọn hoạn quan làm tâm – phúc, năm bẩy lũ đứng sắp hàng cả ở bên cạnh ; muốn cho họ tập uống rượu, lấy tay làm trò vui.
“Phàm bọn quan – thuộc, ai làm thạo công việc, cất về ở thân cận bên tả bên hữu làm việc. Nếu ai có lỗi nhỏ cũng giết, hoặc đánh vào lưng một trăm đến hai trăm roi. Các quan có điều gì không được như ý, cũng đánh tự ba mươi đến năm mươi roi, truất làm hôn lại (canh cửa trong cung cấm). Khi nguôi giận lại cho đâu vào đấy.”
Ứng Hòe NGUYỄN VĂN TỐ