Ông Võ Huy Tấn (số 4)
Trong ba bài trước, tôi đã phác sơ mấy nét về tiểu-sử và văn-chương của Võ Huy Tấn. Chắc, nhân đó, các bạn cũng có thể biết qua được một nhà văn học kiêm ngoại-giao dưới triều Quang-trung (1788-1792).
Như các bạn đã thấy trong bài thứ ba, tác-giả Hoa trình tùy-bộ tập tỏ ra là một thiên-tài sớm nảy-nở, văn-chương uẩn-súc và có tài mẫn-tiệp trong khi hạ bút viết văn hay ứng khâu làm thơ. Dùng làm lời phê-bình, tôi xin dẫn hai chuyện sau này của Võ đề hiến các bạn đọc :
Trong khi đi sứ Tàu, một hôm, ngồi trong công-quán, nhận thấy trong sổ mà tên châu lại-mục nhà Thanh kê-khai đồ cống có viết hai chữ “di quan” (quan mọi), Võ vì trọng quốc-thể, không sao nén nổi nỗi bất-bình, bèn phản-kháng cái lối khinh-miệt người mình ấy bằng cách viết luôn bài thơ bốn câu ba vần sau đây vào cuối cuốn sổ mà đưa cho tên lại-mục xem để dạy cho hắn một bài học lễ độ:
“Di” tự tòng “cung” hựu đới qua.
Ngô bang văn hiến tự Trung-hoa.
Thần kinh khâm tứ An-nam quốc,
Thử tự thư lại bất diệc ngoa ?
Nghĩa
Chữ “di” là do “cung” và “qua” hợp lại mà thành.
Nước Nam ta, về mặt văn chương và người hiền, cũng giống như nước Trung-hoa.
Huống chi, từ xưa đã được nhà Tống (1) gọi là nước An-nam rồi.
Thế thì chú viết chữ “di” này chẳng cũng ngoa làm sao ?
Với bài thơ này, Võ phản đối người Tàu một cách rât khôn-khéo: vừa giữ được quốc-thể, vừa không đẩy cuộc ngoại-giao đến bước quyết-liệt. Taì-tình nhất là câu đầu, vì tác-giả đã khéo giải-thích chữ “do” theo lối chiết tự, nảy được cải ý bóng-bảy rằng: các chú đừng ngạo-mạn, lên mặt ta đây là “trung-hạ” mà coi khinh chúng tôi là “di” (mọi) đâu. Này, bảo thật cho các chủ biết: nước chúng tôi sẵn-sàng cung kiếm và can qua lắm, mà chính thật, với những cái “cung” ấy, cái “qua” ấy, chúng tôi đã quét sạch 20 vạn quân Thanh giữa năm Kỷ-dậu (1789), khiến cho bọn Tộn Sĩ-Nghị nheo-nhóc trốn về, không còn mảnh giáp.
Bài thơ này tỏ ra tác giả lanh trí, “trả miếng” sát-sạt ngay vào mặt người Thanh dám coi khinh mình. Nhưng về mặt văn-chương, nó không đem lại cho ta được cái gì xuất sắc.
Sau khi đã nhận biết được cái hay của Võ qua mấy bài thơ rồi, ta cũng không nên bỏ qua cái sở-đoản của nhà danh thần đời Tây-Sơn ấy.
Cứ theo phả-kỷ của họ Võ, thì Huy-Tấn là dòng-dõi Võ Hồn, người Tàu. Nhưng từ tổ-tiên đời xưa Sang Nam cư-trú, đến Tấn đã 800 năm rồi, nghĩa là đến Tấn đã là người Nam trăm phần trăm, thế mà Tấn còn cho sự thuộc dòng-dõi Trung-hoa đó là một vinh-dự, nên trong bài thơ đề quạt tặng Trần tổng-binh, Tấn có mấy câu phô phang này:
Ngô tiên Phúc-kiến nhân,
Lai Nam bát bách xuân.
Lưu khương thực sinh ngã,
Lũy diệp thiêm quan thân.
Tộc-phả cửu thả viễn,
Toại dĩ bất tương văn.v.v….
Nghĩa
Tổ-tiên tôi là người Phúc-kiến,
Sang nước Nam đến nay đã tám trăm năm,
Nhờ phúc nhà, tôi sinh ra. Chứa chất đời ấy qua đời khác, những bậc quan thân thêm nhiều mãi ra.
Vì phả ký trong họ đã lâu và xa,
Nên nỗi hai bên không nghe biết nhau.v.v…
Nay đọc hết mấy câu đó, chắc các bạn cũng như tôi, có một cảm-tưởng không đẹp đối với tác-giả, hình như thấy rằng tác-giả phải nhận họ như thế thì mới danh-giá.
Nói thêm
Trong bài thử nhất, tôi đã nói-qua tiểu-sử Võ Huy Tấn, tác-giả Hoa-trình tùy bộ tập rồi. Nay xin-trở lại điểm ấy cho được kỹ càng hơn. Võ Huy-Tấn còn có tên khác là Liễn (2), hiệu Nhất-Thủy, là con: của Võ Huy-Đĩnh, hiệu Di-hiên, tiến sĩ, Lễ-bộ tả-thị-lang, bồi-tụng đời Lộ Trung-Hưng.
Võ Huy-Tấn là người lanh-lẹn, tinh-anh, thông-minh sớm. Hồi 20 tuổi, đỗ giải-nguyên khoa mận-tý, năm cảnh-hưng thứ hai mươi chín (1768) đời vua Lê Hiển-tông (1740-1786), làm thị-nội văn chức.
Năm kỷ-dậu (1789), vua Quang-Trung phá tan giặc Thanh, cấp đặt việc nội-trị, tìm người làm việc ngoại-giao để tu hiếu với Mãn-thanh, mong tạm dập tắt ngọn lửa binh-tranh để nhân dân được yên nghỉ.
Như trước đã nói, Võ không thể tử- tạ được, nên vâng lời cha là Di-hiên, phải đáp theo tiếng gọi của vua Quang-Trung, dâng mình phụng-sự tổ quốc. Ban đầu, được vua Quang-trung bổ chức Hàn-lâm đãi-chế, phong tước bá, Võ đóng vai phó-sứ, sang giao-thiệp với nhà Thanh. Những thơ văn của Võ thù-ứng với người Tàu rất được vua Càn-long và giới trí-thức Mãn-thanh khen tặng.
Chuyến sau, Võ được đeo hàm Công bộ thượng-thư mà đi sứ Tàu lần nữa, cho nên bây giờ người Thanh là Cát-thủy Phi Ứng Thăng họa bài Đề Đằng-vương các của Võ, có câu: “Công-bộ văn-chương trùng kiến nhật, Diêm-công đài-tạ bội hay thu”
Hai chữ “Công-bộ” chính là chỉ về chức quan của Võ hồi đó. Việc ngoại-giao thành công. Kết-quả đẹp ấy đưa hai nước Việt, Thanh vào con đường giao hảo thân-thiện, xếp can qua lại một xó mà nói chuyện với nhau bằng ngọc, lụa, áo xiêm.
Vì có công ấy, Võ được liệt vào hàng dực vận công thần, cùng với Thanh (3)-phái-hầu Ngô Thời-Nhậm và Thụy-nham-hầu Phan-Huy-ích cùng chuyên giữ công-việc từ-lệnh về mặt bang-giao, và chia phiên nhau vào kinh Phú-xuân mà triều-cận.
Năm Ất-mão (1795), Võ được đặc-cách tiến lên thượng-trụ quốc thị-trung đãi-chiếu thượng-thư. Bấy giờ vua Quang-Trung đã băng, vua Cảnh-thịnh (1793-1800) (4) đang trị vì.
Năm 52 tuổi, Võ mắc bịnh, rồi mất ở Bắc-thành, được nhà Tây-sơn cho người hộ táng đem về táng tại đồng làng, tức là làng Trầm ở Hải-dương bây giờ.
Võ là một tay học rộng, thơ phanh, lại gồm tinh cả nhân độn, đã từng nhiều phen bày mưu ở nơi chướng hồ và thảo lịch ở trên mình voi, liệu trước nhiều việc rất đúng. Để tỏ tình tri-ngộ giữa mình và vua Quang-trung, Võ có mấy câu thơ ký sự rằng:
Thi níp thảo hoàn đa ứng chế,
Hành chù tứ bão hựu thiêm trà.
Văn-chương lũ phụng luân âm tưởng;
Mi mấn thân thừa ngự thủ thoa.
Cánh hữu nhất ban kham họa xứ:
Liễn đồ, liên tượng, tiếp quang-hoa.
Dịch
Thơ thảo phần nhiều làm ứng chế;
Ăn no lại được thưởng thêm chè.
Văn hay, lời thảnh thường khen ngợi;
Râu tốt, tay vua vẫn vuốt-ve.
Lại có chuyện này nên tả-vẽ
Liền voi, rạng rẻ lúc đi, về…
Hết
HOA BẰNG
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
1) Đời vua Lý Anh-tông (1138-1175) nhà Tống đài Giao-chỉ quận làm An-nam quốc.
2) Trong gia-phả họ Võ thì viết tên là Liễn, nhưng trong Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập quyển 30, tờ 37b chép là Tấn. Ý chừng khi ra làm với triều Quang-trung Võ đổi tên là Tấn, nên sau Sử-quán cứ theo đó mà chép là Võ Huy Tấn chăng.
3) Có bán chép là Tinh-phái hầu.