Quân sĩ hậu Lê chầu hầu phiên tết nguyên đán
Nhà hậu Lê, từ sau hồi Trung-hưng, nhân đất Thanh, Nghệ là căn-bản, mới tuyển những lính ở hai hạt ấy gọi là Ưu-binh còn binh các trấn khác gọi là Nhất-binh. Ưu-binh còn tên gọi là quân Tam phủ (Hà trung, Tĩnh-gia, Thiệu-hoá) dùng làm lính túc-vệ, thân như trảo-nha, đãi như phế phủ. Vì được biệt đãi như vậy, nên sau này quân Tam-phủ sinh ra kiêu mà làm những sự càn-bậy, như việc năm Dương-đức thứ hai (1673) Ưu binh làm loạn giết Tham-tụng Nguyễn-Quốc-Trinh, đốt phủ Quốc-lão Phạm-công-Trứ và cướp tài-sản của hai người, việc phá phủ Tham-tụng Nguyễn-Quí-Kinh năm Cảnh-hưng nguyên-niên (1740); rồi đến việc phế Diện-đô-Vương Trịnh-Cán, lập Đoan-nam Vương Trịnh-Khải (1782).
Muốn xem sự biệt đãi ấy ấy thế nào tưởng nên vẽ qua một buổi chầu-hầu của Ưu-binh trong ngày trừ tịch và tết nguyên-đán ;
Cứ thường năm, ngày 30 tháng chạp đài “Toàn cơ ngọc hành” (Khâm thiên giám) chọn một giờ tốt, phụng chầu vua tắm, các quan ở Binh-phiên truyền các Tiểu-giám sáu cung và các phiên thể-sát, thú, hầu, các cơ, đội, thuyền, quan, quân phải chỉnh tề mũ áo, chiếu lệ treo đèn, kết hoa và phải chầu chực hai mươi chín.
Ngày ấy, mười hai thị cơ hiệu phải sắp-đặt nghi-vệ, loan-giá. Quá trưa phải cắt sai tuần-binh, đội thể sát nghe hiệu trống lập tức đem quân vào chỗ cung điện đã treo đèn kết hoa.
Đêm ấy, quan Đề-lĩnh phải chịu trọng trách trông nom trong hoàng-cung và vương phủ. Buổi tối, đem quân canh phòng túc trực. Đến ngày giờ hành-lễ, buổi sớm, đội binh nghiêm nhất đánh trống, quân canh mở cửa, lệnh truyền ra cho quân vệ-binh vào chầu.
Quân trung-hiệu đánh trống tiên-nghiêm, phụng rước Hoàng-thượng đến ngự lầu thay áo. Lúc ấy đội kiệu nhất nổi hiệu chiêng thu quân. Đến tụng-hiệu-lệnh vào cung, truyền mời các quan thân huân (họ nhà vua có công to) vào dinh phụng mệnh và chậu ngự dục.
Hoàng-thượng thay áo tắm gội. Lúc ấy các đội binh, nhưng-nhất, kiệu-nhất nghỉ. Các quan văn võ đến nơi vọng-triều, chờ đánh trống tiên-nghiêm và thanh la ba hồi, các văn võ vào làm lễ mừng, chia ban đứng chầu ở trước doanh môn, truyền mở cửa dinh, dàn bầy ngự xa ở trước cửa, đội nhưng-nhất đánh trống tiến lên trước phụng rước hoàng thượng lên xe loan tiến về cung, quan Binh phiên ra hiệu vẫy quạt, các quân-sĩ chầu-hầu đều đồng thanh hò reo vui-vẻ, xong rồi lại chiếu thứ bực mà lui ra.
Trước ngày mùng một tết nguyên đán, binh phiên quan cũng đã phải dự định từ trước đài “Toàn cơ ngọc hành” phải chọn giờ tốt, phương hướng tâu lên hoàng-thượng.
Đêm 30 tết, đặt hiệu Thiện-hùng và phát thuốc súng, đến giờ thị lệnh phụng tuyển nổi lệnh ở kỳ-đài báo hiệu hành lễ tại đền Kính-thiên.
Lúc ấy các đội quân thuyền đội nhưng nhất, kiệu nhất, nội nhưng, nội kiệu quan đã sắp hàng tề-chỉnh chầu-hầu.
Các đội thuyên nội khuông, nội dực, nội tiếp, nội sung, thị-hãn, thị tượng, thị kỵ, thị-mã thể-sát đều phải chỉnh tề áo mũ, làm lễ trước sân.
Lễ xong, binh phiên bắt đầu đếm xem có tất cả bao nhiêu quan quân chầu-chực, rồi tâu lên. Tiền ban nhiều ít tuỳ theo thứ bậc.
Như nhất-phẩm, cổ-tiền năm quan, nhị-phẩm bốn quan, tam phẩm ba quan, tứ-phẩm hai quan, lục thất phẩm một quan năm tiền bát, cửu phẩm một quan.
Buổi sớm ngày nguyên-đán, vua ngự ở chính cung đền Kính thiên, các quan quân vào làm lễ bái khánh đều dùng mũ áo màu lam. Làm lễ xong, phụng rước Hoàng-thượng hồi cung.
Gặp những ngày diên-thọ, thọ đản, đoàn-ngọ nhà vua lại còn ban cho rượu và các thực-phẩm và đồ dùng nữa (1).
TIÊN-ĐÀM
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)