Sử học luận đàn
Bản-chí mở ra mục này đề hoan-nghinh những bài của các bạn đọc hoặc tỏ kiến-giản đối với một vấn đề nào về sử-học, hoặc tranh luận hay giải-thích về những điểm đáng ngờ trên trang lịch sử việt-nam.
Làm công-việc này bản-chí chỉ có mấy ý là : muốn tìm sự-thực, rộng nhặt tài liệu, chất chính cùng các bực thức-giả.
Dưới đây là bài của ông Kiều Thanh-Quế (Cần-thơ) thảo-luận với ông Lê Văn-Hòe về một vài “chi-tiết ở trong rừng” Quốc-sử. – T.T.
Quốc sử chép đúng:
Mị-nương, con gái Hùng-Vương họ Mị Mị-Châu con gái An-dương vương họ Mị.
Làm công việc sưu-tập tài liệu để mong đính ngoa Quốc-sử, ông Lê Văn-Hòe vừa cho ra tập sách mỏng-mẻo Quốc sử đính ngoa. Trong sách ấy, ông Lê Văn Hòe đặt ra câu hỏi: “Con gái vua Hùng-vương thứ 18 tên thật là gì”. Rồi trả lời: “Đời Hùng-vương tức là trong cả 18 đời Hùng-vương, con trai vua gọi là Quan-lang, con gái vua gọi là Mị-nương (có lẽ chính là Mệ Nàng) tức cũng như người Tàu gọi công-chúa. Như vậy thì hết thấy con gái các vua Hùng-vương đền gọi là Mi-nương, chứ riêng gì con gái vua Hùng-vương thứ 18 ? Mị-nương là một danh-từ chung, như công chúa, chứ có phải là một danh từ riêng đâu ?. Nói ( con gái vua Hùng-vương thứ 18 là Mị-Nương là nói thừa với lập. Đáng lẽ phải nói: Mị nương con gái Hùng-vương thứ 18 tên là… Những con gái vua Hùng-vương thứ 18, người mà Thục vương hỏi không được, người mà Sơn-tinh, Thủy-tinh tranh-giành nhau, tên thật là gì ? sử không chép và cũng chẳng ai biết. chep và cũng chẳng ai biết.”
– Thưa sử có chép Và Ngô Sĩ-Liên, tác giả Đại việt sử ký, mà ông Lê Văn-Hòe bảo là “ngớ ngẩn” đã biết.
Thưa, Mị-Nương không phải đồng nghĩa với tiếng “công chúa” theo ông Lê Văn-Hòe nghĩ (1). Mị Nương cũng không phải “có lẽ chính Mệ nàng”.
Mị-Nương là nàng công chúa họ Mị con vua Hùng-vương thứ 18.
?
Trong câu chuyện nỏ thần của sách Quốc sử đính ngoa, ông Lê Văn Hòe lại tin theo sách Việt kiện chí của Tàu, bảo con gái An Dương-vương tên Lan-Châu, và thêm: “Ta lại có thể đoán chắc rằng tiếng Mị nguyên là tiếng Mệ, tiếng thời cổ dùng để gọi con gái vua, cũng như tiếng Nương có lẽ nguyên là tiếng Nàng. – Mị Châu tức là Mệ Châu. – Dân An-lạc gọi con gái vua (tên là Châu) là Mệ Châu cũng như dân Tàu gọi công-của Châu vậy… Theo những điều nhận xét trên này, liệu ta có nên định chính câu chuyện tên con gái vua Thục ?”.
– Thưa không. Quốc-sử chép con gái An-dương vương tên Mi-châu là chép đúng. Khỏi cần phải đính ngoa lôi-thôi gì cả
Tự thể-kỷ đệ nhất trước Thiên Chúa, sách Sử ký của Tư-mã Thiên lại chép một đoạn trong Chiến-quốc sách (thế kỷ thứ 3 trước T.C.) có câu: “Tiễn phát, văn thân, thác tí, tả nhậm: Âu Việt chi dân dã”. (Cắt tóc, vẽ minh, khoanh tay và cài áo bên tả, ấy là tục dân Âu-Việt).
Chú-thích về đoạn sách ấy, người đời sau, Trương Thủ-Tiết đời Đường (737 sau T. C.), viết : “Án thuộc Nam-Việt cổ ngôn Âu-biệt dã, – Dư-địa-chi vân : Giao-chỉ, Châu thời, vi Lạc-việt; Tần thời viết Tây-Âu, văn thân, đoạn phát, tự long, tắc Tây-âu-lạc hựu tai Phiên-ngô chí tây-nam, Việt cập Âu-lạc dai tánh Mi dã. Thế-bản vân: Việt Mị tánh dã, dữ Sở đồng tổ thị dã”. (Xét: thuộc về Nam-việt, cho nên gọi là Âu-việt. -Sách Dư địa chí chép; đất Giao-chỉ về đời Châu là Lạc-việt, về đời Tần là Tây-ân; người dân vẽ mình cắt tóc để tránh giống giao-long. Lại gọi là Tây-âu-lạc vì ở tây-nam thành Phiên-ngô (1). Người Việt và người Âu-lạc đều thuộc họ Mị cả. Sách Thế-bản chép: Người Việt thuộc về họ bị cùng với người nước Sở cùng tổ).
Nước Sở xuất-hiện trong lịch-sử Tàu lần thứ nhứt vào khoảng thế-kỷ thứ XII-XI trước T.C. Trung-tâm-điểm chánh-trị của nó thành lập trên Dương-tử-giang, thuộc miền Hồ-bắc, Hồ-nam ở giữa Nghi-xương và Động-đình-hồ. Năm 333 trước T.C, Sở chinh-phục được Việt, chiếm cứ cho đến phía bắc Triết-giang, rồi diệt hẳn Việt-quốc. Người Việt vong quốc, theo miền duyên-hải, di cư lần xuống phía Nam.
Sách Sử ký của Tư-mã-Thiên (thiên 40) chép đại khái rằng, vào thế kỷ thứ IX trước T.C, một ông vua Sở chinh-phục được đặt Dương-việt, tức là chinh phục được chính vùng Triết-giang, nơi đó rồi xuất-hiện Việt-quốc.
Thế nên bảo vua Việt với vua Sở đều thuộc họ Mị cả là điều có thể tin được.
Theo sách Sử ký, ta lại rõ rằng: tổ-tiên người An-nam, trước khi thuộc về nước Việt, như mọi người đều biết, đã lệ-thuộc Sở-quốc.
Theo Quốc-sử, nước An-nam thuở xưa gọi là nước Văn-lang, tây giáp Ba-thục (tức là miền Trùng-khánh, Thành-đô ở Tứ-xuyên ngày nay) bắc giáp Động-đình-hồ (trên tỉnh Hồ-Nam).
Nước Văn-lang ấy tức là nước Việt lê-thuộc Sở-quốc. Vua Văn-lang – Hùng-vương – phải là đồng họ với vua Sở: họ Mị. | Con gái vua Hùng-vương là Mị-nương (cô con gái họ Mị). Quốc-sử đã chép đúng !.
Quốc-sử chép: An-dương-vương lấy được nước Văn-lang đổi quốc-hiệu lại là Âu-lạc. Trên kia, sách Dư-địa chí bảo : Người Việt và người Âu-lạc đều thuộc họ Mị cả.
An-dương vương bọ Mị. Con gái ngài, quốc-sử gọi Mị Châu là đúng.
Mị-Châu là nàng công chúa họ Mi, tên Châu hay tên Lan Châu như sách Việt-kiện chí của Tù bảo cũng được.
Chớ không phải như ông Lê Văn Hòe bảo: “Lan Châu là tên thật, còn Mị là tiếng tôn xưng”.
KIỀU THANH-QUẾ
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)