Tài liệu để đính chính những bài văn cổ (số 14)
XLIV Chung tình
Xa-xôi trình lạy muôn vàn,
Cách trở khôn vui mượn ca nhàn
Dở sách biếng ngâm câu biệt-hạc
Ôm cầm ngại gẩy khúc li-loan,
Mang lo Hồ, Việt, phân hai sở,
Những ước mây rồng họp một đoàn
Hảo thục may nào nên sở ngãi,
Song song cũng ngợi khúc “quan quan”
(Trích ở quyển Quốc âm thi ca tạp lục sách viết bằng chữ nôm của trường Bác-cổ, số ab 296.)
XLV Chung-tình ca
Dầu nên non nghĩa núi công,
Há phen lê-thải ghẹo hồng cho cam?
Con ngựa bắc, tiếng chim nam,
Càng e diệu vợi, càng nhàm gió giăng.
Một nên với lại một chăng,
Dẫu nên cũng đội, dẫu chăng cũng mừng.
Nghĩ đâu tinh xiết cây măng,
Gương giăng thỏ cậy suất trừng xét-soi.
Đã rằng nhị rữa hoa trôi,
Hiềm chi vần đặt vần dôi ý gì ?
(Trích ở quyển Quốc-âm thi ca tap lục).
XLVI Chùa Báo-thiên
Bài dẫn (bằng Hán-Văn, dịch ra quốc-âm) Ngày tốt đang sáng-sủa, ruộng vàng thêm rực-rỡ: bốn mùa xuân, muôn vật đều xuân, mây năm vẻ họp, nghìn điềm lành đều họp; ghi chép vào đá tốt, hết sao được hình dung ? Vậy làm tiếp theo hai bài thơ quốc âm:
1- Bốn bè đen ngắt gấm vân trường,
Cảnh lạ mười phần chỉn khác thường.
Thăm-thẳm liên-đài nhuần diệu sắc.
Thênh-thênh phúc-chỉ nức thanh hương.
Vậy nên cõi pháp trừng tha-tinh,
Suốt được lòng người lạc thiện phương,
Gió đạo thổi đưa hòa hẩy-hẩy,
Công khi ngoạn thưởng rất thư-lương.
2- Bình-phong tám bức mọi đồ thầu,
Đầm-ấm giời xuân ngọc một bầu.
Mây thụ đùn đùn toàn bảo-các,
Non nhân vòi-vọi đối chung-lâu.
Mở đường tế-độ là ơn rộng,
Song cửa từ thông tỏ đạo màu,
Thắng lãm chọn đây làm phẩm nhất,
So trong tĩnh-giới há nhường đâu.
(Trích ở quyển Ngự-đề thiên-hòa doanh bách vịnh thi tập của Trịnh Căn, 1682-1709, sách viết bằng chữ nôm của trường Bác-cổ số ab 544, tờ 10 a-b)
XLVI Tuyết sơn cảnh trí ca
(thuộc Hoài-an huyện)
Điệp trung bình mở cõi Nam,
Động xuyên lưng núi khéo làm vẻ-vang
In ra đầu thánh móng vàng,
Đọng nên cây tuyết cành sương ngọc lồng.
Gió đưa vang động cây thông,
Tuyết vào cửa trắng điểm vòng giăng chơi.
Núi con khá chứa cõi đời,
Tới lên tam ngụ vẽ vời câu thơ.
(Trích ở quyển Phong-cảnh biệt chi, sách viết bằng chữ nôm của trường Bác-cổ số ab 377, tờ 7b)
XLVIII Bồng-hinh thắng-tích ca
Đường non chống mở xuyên ngang,
Hóa-công dùi chọc đã thường nhiều năm.
Đá xanh ngờ chẳng đất liền,
Biếc in dòng lạnh có miền giời xanh.
Đá như dáng đỏ gấm tranh,
Sóng lồng vú rủ muôn vành ngọc treo
Phi-lai chốn ấy vui theo,
Khó đem bút vẽ những điều truyện hay
(Trích ở quyển Phong-cảnh biệt-chi, tờ 8a). (1)
XLIX Lắm mối tối nằm không phú (2)
(Hạn “Ông tơ độc làm chi”, năm vần)
Lênh-đênh lá thắm, bối-rối chi hồng; chăn chung nửa mảnh, tơ vấn trăm vòng. Bức-bối đương cơn nắng hạ, lạnh-lùng thay thuở đêm đông. Ngày líu-lo thước gọi vườn đào, tưng-bừng giấc bướm; đêm khắc-khoải cuốc kêu dặm liễu ấm-oái, tin ong. Ấy chẳng qua hương lửa ba sinh, lẻ-loi đành tại phận; tóc tơ một mối, chắp nối bởi tay ông.
Có một người má hồng hớn-hở, mày liễu phất-phơ, giá thuyền-quyên chất để nhà vàng, phong-tư dễ mấy, phận bồ-liễu dịu-dàng vẻ ngọc, cách-điệu cũng ưa. Rõ-ràng quốc-sắc thiên-hương, hoa cười ngọc nói, rộn-rã văn-nhân tài-tử, mối đón thư đưa; Tin nhắn tin bó, tin đợi tin chờ, mấy bức tờ tin nhạn xa đưa, này thư Tống-Ngọc ; một phiếm đàn cầu-hoàng dạo gẩy, nó ngón Tương-Như. Thung-thăng con yến trước sân, một hai cánh thiếp; phảng-phất chim hồng trên án, năm bảy lá thư. Nhà thông huyên khuyên bảo trăm chiều, lấy ai thì lấy; thân bồ-liễu dở dang lắm nỗi, chưa vẫn hoàn chưa. Nào ai hẹn ngọc thề vàng, phòng không vò-võ; nào kẻ nguyền non chỉ bể, giăng bạc trơ-trơ ! Buồng loan vắng vẻ một mình, muốn chôn bà nguyệt; gối phượng lẻ loi chiếc bóng, muốn lấp ông tơ.
Bắc thang lên gọi chị Hằng-Nga, hỏi xe duyên làm sao lẩn-thẩn; chắp cánh dạo tìm chàng Từ-Thức, hỏi vì ai nên nỗi ngẩn-ngơ ? Cho nên ngao-ngán trăm chiều, ngổn-ngang lắm lúc, trông bóng mà cảm với bóng, mơ-màng giấc điệp năm canh, soi gương mà thẹn với gương, bối-rối ruột tằm chín khúc. Muốn lấy kẻ văn-nhân mà nhờ tiếng, thì không người tri-kỷ, mong con bạch-nhạn lại khơi chừng; rắp đem cây cù-mộc để nương mình, chỉ e giọng Hà-đông, liên tiếp phù-sinh là mấy chốc; ngấp-nghé những tuồng quân-tử, tính trẻ hay còn tham; bâng-khuâng nào khách tri-âm, giăng già sao mà độc !
Thôi thì thôi, tựa lưng tường bắc, hóng gió nồm nam, bởi má hồng lắm lúc gian-truân, há rằng sinh lỗi, vì phận bạc cho nên đến nỗi, dám trách ai làm, chỉ tại xấu số phải nắm không thì chịu, nào có kém ai mà ở vậy cho cam.
Thơ rằng:
Dở-dang duyên-phận chẳng ra gì
Khen khéo giời xanh độc địa chi!
Tối đến thở than cùng nguyệt chị,
Ngày thì năn-nỉ với phong-dì.
Muốn treo cầu Thước cho ngay lại.
Để đợi chàng Ngâu tiện lối đi,
Trêu ghẹo hồng-nhan chi lắm tá?
Xuân-xanh thấm-thoắt dễ qua thì !
(Theo quyển Quốc-văn tùng-ký, của Hải-chân-tử biên-tập, sách viết bảng chữ nôm của Trường Bác-cổ, số AB 383 quyển hạ, tờ 22a-23b).
(Còn nữa)
Ứng-hòe NGUYỄN-VĂN-TỐ biên-tập
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
1) Những bài trích trong Quốc-Âm thi-ca tạp-lục, Thiên-hòa-doanh bách vịnh và Phong-cảnh biệt-chi in ra quốc-ngữ lần này là lần đầu. Quyển Phong cảnh biệt-chi có cái đặc-điểm là những bài ca toàn là văn dịch. Nguyên-văn chữ như sau này:
Tuyết-sơn cảnh-trí
Thúy bình điện-điệp trĩ Nam-duy,
Động tạc sơn yêu thiết tạo kỳ.
Triện xuất thần tung kim trảo giáp,
Ngưng thành tuyệt thự ngọc chi phì
Phong truyền linh sáo phần tùng hưởng
Tuyết hộ tình song điểm nguyệt qui.
Nhất lạp khả năng tăng thế-giới,
Băng tâm liểu ngụ họa trung thi.
Bồng-hinh thắng-tích
Man kính xanh khai nhất kính xuyên,
Hóa công chùy tạc kỷ đa niên.
Thanh tán kiên đăng nghĩ vô (?) địa
Bích dẫn hàn lưu hốt hữu thiên.
Vị thạch đan hà thiên cẩm xuyết,
Trám ba chung nhụ vạn châu huyền.
Cá trung tự thích phi-lai lạc,
Diệu sứ nan tương họa bút truyền