Tài liệu để đính chính những bài văn cổ (số 20)
LXXXII (1) Triều thần hạ vũ thi (2)
Tinh thành đâu dám thấu u-huyền,
Cam-vữ đều nhờ sức cán-tuyền.
Một trận dồi-dào (3) nhuần Thuấn dã,
Muôn phương hớn-hở khắp Chu điền.
Cơ-mầu cảm-cách câu như hưởng,
Điềm ứng phong-nhương vận hữu niên.
Khôn biết lấy chi phu thượng đáp,
Gìn lòng kính-cẩn dám khi quên.
(Trích ở quyển Quốc-âm thi-ca tạp-lục, sách viết bằng chữ nôm của Trường Bác-cổ, số A B 296).
LXXXIII Ngự chế hỉ vũ thi (4)
Máy nhiệm cao tranh theo chuyển vần,
Giào tuôn đòi trận bốn phương nhuần.
Những e hỏa tản xoay tuần hạ,
Phút xuống quỳnh-tương tưới đội xuân.
Lưu-loát công tư mừng mọi chốn,
Chứa-chan thử tắc tốt mười phần.
Cảm-phu dám nghĩ gì tâm đảo,
Muốn đội khung-huyền mẫn hạ dân.
(Trích ở quyển Quốc-Âm thi-ca tạp-lục).
LXXXIV Hoạch Tấn thượng thư trí sĩ phụng ngự ban thi quốc ngữ nhất thủ
Bấy lâu gang tấc chốn phong thần,
Lục đã phen này đượm thức xuân.
Hoa-quốc mấy tài thêu vẽ gấm,
Lập triều nhiều thuở nhắc đồng cân.
Máy sâu tóm tỏ đường (5) tri túc,
Gánh nặng còn doành sức trí thân,
Ưu-ốc niềm mưa nên nghĩ đấy,
Bên tai khá lắng tiếng thiều-quân.
(Trích ở quyển Quốc-âm thi-ca tạp-lục).
LXXXV Chùa Pháp vũ
(Của Trịnh-Căn, 1682-1709).
Bài dẫn (bằng Hán-văn, dịch ra quốc- văn). – Giữa chốn đồng bằng trên cõi đất, cảnh chẳng lấy gì làm non cao núi lạ, nơi chẳng lấy gì làm suối thẳm hang cùng, đúc nên một thế-giới rực-rỡ như ngọc lưu-li; chùa Pháp-vũ ở Thượng-phúc là nơi lạ hơn hết. Ao nẩy sen xanh, đài mở cánh vàng; rườm-rà bóng việt, như chiếu che một góc giời; tha thướt cành dương, nước vẩy thấm-nhuần cho mọi thức; thoang-thoảng huệ-phong hòa lá bối, rành-rành giăng sáng ánh họa đàm, đuốc báu sáng soi bốn cõi, bè từ phổ-độ trăm dòng: lộng-lẫy thay! linh thiêng như có; nhiệm-màu thay! công đức khôn lường. Chợt bàn danh thắng, cầm bút thành thư.
Thanh-quang mơn-mởn trốn giao-quang,
Gấp mấy trần gian mấy thê-thường.
Cả mở tượng-đồ, đồ tuệ-chiếu,
Vẹn gồm khoa-lục, lục kim-cương.
Doành thâu bích-hải, doành quanh-quất,
Sắc ánh từ-vân, sắc rỡ-ràng.
Đức thịnh càng ngày càng hiển-ứng,
Đừng thay đừng lạnh dấu đăng-hương.
(Trích ở quyển Ngự-đề Thiên hòa-doanh bách vịnh của Trịnh Căn, sách viết bằng chữ nho và chữ nôm của Trường Bác-cổ, số AB 544, tờ 14b – 15a.)
LXXXVI Lãm sơn cảnh huống (6)
Rốn rồng đường dậy vuông tròn,
Núi cao nghe nói hãy còn tiếng hay.
Mây che quanh ba nghìn cây,
Non xanh mười sáu làng rày ở quanh.
(Trích ở quyển Phong-cảnh biệt chí, sách viết bằng chữ nho và chữ nôm của Trường Bác-cổ, số AB 377, tờ 13 a.)
(Còn nữa)
Ứng hòe-NGUYỄN VĂN TỐ
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
1) Những bài đăng kỳ này chưa có ai in ra quốc-ngữ.
2) Trong bản nôm đề là Kỷ-sửu niên triều-thần hạ vũ thi nhất luật nghĩa là năm kỷ-sửu, 1769, các quan triều thần làm một bài thơ mừng mưa.
3) Có người đọc là “lâm dâm”.
4) Bán nôm đề là Quí-tị niên tứ nguyệt thập nhật ngự chế kỷ vũ thi nhị thủ nghĩa là năm quí-tị, 1773, tháng tư, mùng mười, vua làm hai bài thơ mừng mưa: một bài thơ chữ và một bài thơ nôm. Bài thơ chữ như sau này :
Thước-thạch lựu-kim thử chính kiêu,
Bái nhiên thùy liệu giải tiêu ngao.
Cửu tiêu mộc-mạch phân châu-tiết,
Tứ đã bàng-sà ốc thổ-cao.
Chính hỉ vọng-tâm phu tại tại,
Cảm vân thí-trạch úy cao cao.
Ngưỡng tư huyền-huống di căng lật,
Mãnh miễn dị cung hiệp Vũ Cao.
Đại-khái nghĩa là: đá chảy, vàng chảy vì nắng dữ; ai ngờ cả trận mưa giào giải được cơn nóng ấy. Chia từng hạt mưa rơi xuống như ngọc châu vụn, bốn cõi mông-mênh đất ướt như mỡ. Rất mừng được thỏa lòng mong mưa, dám nói yên được lòng trên cao đã ban ơn. Trông lên phúc nhớn của giới càng lo sợ, cố gắng kính-cẩn hợp với lòng vua Hạ-vũ (khoảng năm 2205 rước kỷ-nguyên) và ông Cao dao (là quan tư-pháp đời Ngu-Thuấn)
5) Có người đọc là: “Máy sâu tóm tỏ là tri-túc” .
6) Nguyễn-văn chữ nho là: Bắc-ninh trấn phong-cảnh: Lãm-Sơn cảnh huống (thuộc Quế-dương huyện, thập-lục xã hoàn sơn).
Long-đỗ phương sơ tác thượng phương
Cao phong văn đạo thượng lưu phương
Tản vân lục nhiễu tam thiên thu,