Tài liệu để đính chính những bài văn cổ (số 21)
LXXXVII Quận công Phán trung hầu tri sĩ phụng ngự ban thi quốc âm nhất thủ
Cần-lao giữ vẹn chữ dương quan,
Cập-cách rày noi lệ dưỡng nhàn.
Nam thự rơ-ràng phô áo gấm,
Đông-tân dìu-dặt gác trèo lan.
Tuyền-sương chưa nhuốm đồi mai bạc,
Vàng đã nền bền một tầm đạn.
Ngoài quyết, giang-hồ, hai nhẽ ấy,
Hãy cân nhắc đấy thú nào hơn ?
(Trích ở quyền Quốc-âm-thi-ca tạp lục, sách viết bằng chữ nôm của trưởng Bác-cổ, số AB 296 )
LXXXVIII Thượng thư Nghĩa đức hầu tri sĩ phụng ngự tiễn thi quốc-âm nhất luật
Thời cát-sĩ, quốc lương-thần
Đôi giá đà nên giá tịch trân.
Lao-lực mấy phen bền một tiết,
Thanh-liêm hai chữ vẹn mười phân.
Ghi son tạc sắt dành in khoán,
Yêu nước vui non phải nhắc cân.
Lòng ấy lòng nào nên nghĩ đấy,
Luân chỉ là ở trước năm luân.
(Trích ở quyển Quốc-âm thi-ca tạp lục.)
LXXXIX Chùa Phả lại
(Của Trịnh-Căn, 1682-1709).
Bài dẫn (Bằng hán-văn, dịch ra quốc-văn) – Cảnh Chúc-thánh ở Phả-lại là một trong bốn cảnh thiền-lâm nhớn nhất của nước Nam ta. Sở-dĩ được tiếng, không những vì chuông to, còn vì đất thiêng: cảnh sơn-tú, khi mây tan muôn định rõ màu xanh; khi mưa tạnh, nghìn non treo sắc biếc; cảnh thủy: thanh, thác êm mà đàn cá chơi giăng, nước triều lên sáu rồng bỡn ngọc. Thực thực phon quang, trân kỳ đáng quí; thật là nơi của những bậc cao nột (sư tu đắc đạo) mến cảnh vân-yên và là dấu vết thiêng dựng cây tích trượng gậy của nhà sư để độ cho thế gian, khói huơng truyền mãi đến ngày nay. Bao-quát một bầu giời đất, làm ra một luật thơ bảy chữ như khuê tảo, để ghi dấu vĩ quan.
Tạo-thành nhờ có sức thiên-thành,
Thắng cảnh thừa lưa rất hữu tình.
Hoa anh đài lan màu điềm ngọc.
Xuân Đầu dặm liễn thức pha xanh.
Tinh-hà vẻ dậy, nghìn từng sấm,
Sơn-thủy đồ phong, mấy bức tranh.
So ví Viên-kiều đây ý cũng,
Xiết đâu khen ngợi khí trung linh
(Trích ở quyển Ngự-đề Thiên hòa-doanh bách vịnh của Trịnh Căn, sách viết bằng chữ nho và chữ nôm của Trường Bác-cổ, số AB 544, tờ 15 b – 46 a)
XC Châu sơn danh thắng
Riếng kia hoang bỏ ai xây!
Châu-sơn dầu sót đến nay còn thừa.
Kinh-xà về bề hay chưa ?
Nữ-tiên còn phá, béo thừa về sau.
Thôi-Trọng tòng tiên ở đâu ?
Triệu-Dương vào giếng ắt hầu phải đây.
Ta hầu muốn hỏi việc nay,
Nhàn lau bia sót ghi ngày thắng đu.
(Trích ở quyển Phong-cảnh biệt chi, sách viết bằng chữ nôm của Trường Bác-cổ, số AB377 tờ 13b. (1)
XCI Bài tán Ông Tiến sĩ
(của Nguyễn -đình- Tổ, đỗ tam gián tiến sĩ năm 1769)
Kia ra đường, thì lọng rập-rình đội, võng dan-díu bẩy; gậy sừng hươu vác trước nghênh-ngang, giáo cổ ngồng xua nhau lập-lẫy: trông tiểu cổ lung-lung lừng giọng hát, giời nghiêng một góc tưng-bừng; quân tiền-hô thứt-láo tránh ra oai, người đẹp đôi bên thây thẩy. Kẻ đi đường phải nghiêng nón dạo quanh; người ngồi quán phải nép mình đứng dậy.
Khi vào chầu thì nghiêm-trang mới dám nghi-vệ căng gia; đai mặt ngọc sáng lừng đủng-đỉnh. ủng mũi ngao cạo-cật nhởn-nhơ, đầu đội mũ đồng-cân, phảng-phất ngắm hình khác nào Bụt hiện; lưng đeo tấm hổ-tử, thướt tha xem dạng quá ngỡ tiền sa.
Khi ra vâng chịu mệnh vua, sửa sang việc nước; kinh-luân mặc sức đảm đang, khôn-khéo ra tay mực thước; thét một tiếng gian tà co cổ, ai nào dám he; quát một điều nha-dịch cau mày, người nào dám lược.
(Theo quyển Quốc-văn tùng-ký của Hải-chu tử biên-tập sách viết bằng chữ nôm của Trường Bác cổ số AB 383 quyển thượng, từ 22 a) (2)
(Còn nữa)
Ứng hòe-NGUYỄN VĂN TỐ biên tập
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
1) Những bài thơ, bài ca, đăng kỳ này chưa ai In ra quốc-ngữ. Nguyên-văn chữ Hán bài Phong cảnh biệt-chi chép ra sau này:
Châu-sơn danh thắng (thuộc Tiên-du huyện, thượng hữu Việt-tỉnh).
Việt-tỉnh hoang tưởng kỷ độ thu,
Châu-san di-tích chí kim lưu.
Kinh-xà cửu dĩ qui thương hải,
Thần-nữ do tồn hội chuế do.
Thôi-Trọng thừa vân hà xứ thị,
Triệu-vương nhập tỉnh quả nhiên phần
Ngã lai dục vấn đương niên sự
Nhàn phất di bi ký thắng du.