Tài liệu để đính chính những bài văn cổ XI
Tiếp theo của phần X
XXXIV: Vịnh Nam-giao
(Thơ Trịnh-Côn,1682-1709)
Bài dẫn (bằng chữ Hán). – Tế Nam-giao dựng nên là việc rất kính-cẩn..Ta nối theo nghiệp vương, gìn-giữ nền nhớn, đầu mùa xuân chọn ngày tốt, thân giúp xe vua, kính tới bái yết, ngưỡng chiêm đức nhớn, rờ-rỡ khó tả. Lòng cung kính sinh ra, nhân thế làm bài ca, ngâm thành một luật quốc-âm, đề tỏ lòng thành-thực kính-cẩn.
Vũng đặt tiền khôn khéo vẹn nên,
Nhạt vời trần tục quả vời khen.
Mấy lần rờ-rỡ kim-anh điện,
Một áng lầu-lầu thế-giới tiên.
Phát dục bốn mùa ơn hiệu đãng,
Bao hàm muôn vật đức thuần toàn.
Lễ hằng kinh yết tuần nguyên chinh,
Mặc hựu đều nhờ sức đại-viên.
(Trích ở Ngự-đề Thiên-hòa doanh bách vịnh thi-tập, sách viết của Trường Bác-cổ, số AB 544, tờ 4 a-b.)
XXXV: Vịnh cung miếu
Bài dẫn (bằng chữ Hán). – Nghĩ hiếu-đạo thời tiên-tổ, rõ rệt nhời giáo-huấn, xem văn hay mà chuộng đức trung-thuần, xét việc tế-tự mà suy đến căn nguyên tình-đốc. Ôi ! nghĩ các vị thánh vương rất là tôn-kính, một lòng giúp-đỡ sửa-sang nghiệp nhớn, phấn-chấn anh-uy dũng-lược,trừ kẻ tiếm nghịch, điềm quái-gở, yên vạc rồng, lấy lại thần-kinh, mở mang cõi đất, hưng khởi việc đời. Hiệu lệnh ầm ầm như gió sấm, cương trù vằng vặc như mặt giăng mặt giời, mơn mởn tam cương cửu trù như mùa xuân, rờ rỡ như mùa hè, trăm thần ủng hộ, chín cõi qui phục. Giữ triều-đình ngay thẳng để đặt phép công bằng khắp hoàn hải đền khuôn mung đúc, công giáo dục sánh cùng giời đất, nhân ân thấm nhuần muôn vật. Xa gần đều nhờ mây tạnh, ngang dọc cùng vết bánh xe, vận tốt như giới sáng vằng vặc, mối truyền như giây dài miên-viễn. Nhớ công xây dựng khó nhọc, cơ nghiệp đắp nên, nối theo làm thêm sáng sủa, công to phép thịnh, rõ ràng trong sách vở, chính tốt mưu hay, để mãi như rùa để bói, như gương để soi, trông như núi cao, lòng mến nhường nào, cảm động vun giồng, chưa từng mảy may báo bộ, chép hai bài tán-dương, hầu tỏ lòng kính mến.
Trung-hưng đem lại vững nền Dương,
Sửa đẹp nhiều thu sức đởm đương.
Uy hiển nhơn nhơn trên thánh tọa,
Lễ nghiêm chầm chễm trước kim đường
Dõi truyền tôn xã muôn đời thịnh,
Sảng đề huân danh bốn bể vang.
Ngữ thể đức kiền càng cảm kích,
Nỗi lòng truy viễn bức vân chương.
Dài dặc thần cơ chí mở mang,
Công thu thu vẹn chính triều cương.
Kinh bầy diện-diện đồ khuê bích,
Gìn giữ khăng khăng phép đế thường.
Nhờ phục trùng trùng so địa hậu,
Tưởng ơn dằng dặc sảnh thiên trường,
Tĩnh phù thế nước nhường như tại,
Thăm thẳm cao trong ngõ thái dương.
(Trích ở Thiên-hòa doanh bách vịnh, từ 5-6 b)(1).
XXXVI: Văn tế phò mã Võ Tánh và thượng thư Ngô Tòng Chu
(Đặng Đức-Siêu soạn) (2)
Than rằng: đạo thần tử hết lòng thờ chúa,
Gian nan từng dãi dạ trung thành;
Đấng anh hùng vì nước quên mình,
Điên bái chẳng lay lòng trung nghĩa (3).
Ngọc dù tan, vẻ trắng nào phai;
Trúc dẫu cháy, tiết ngay vấn để
Nhớ hai người (5) thao lược ấy tài.
Kinh-luân là chí.
Phù vạc Hán (6) thuở ngôi trời chếch lệch,
Chém gai đuôi lũ hung tàn;
Vết xe đường khi thế nước chông-chênh,
Cầm bút ra tay kinh-tě.
Mỗi nghĩa sánh duyên gác tía,
Bước gian-truân từng cậy dạ khuông phù;
Màn kinh giúp sức cung xanh,
Công mông dưỡng đã đành lòng ủy-ký.
Hậu quân thuở trao quyền tứ trụ,
Chữ ân-uy lớn nhỏ đều phu;
Lễ-bộ phen giúp việc chính khanh,
Bề trung-ái sớm khuya chàng trễ.
Ngoài cõi vuốt mang ra sức,
Chi tiêm-cừu đành dãi xuống ba quân;
Trong thành lòng dạ chửa lo,
Bề ưu-quốc đã thấu lên chín bệ (7).
Miền biên-khổn đôi nắm chia sức giặc,
Vững lòng tôi bao quản thể là nguy (8);
Cõi Phú-xuân một trận thét vai trời,
Nặng việc nước phải lấy mình làm nhẹ.
Sửa mũ áo lay về bác khuyết,
Ngọn quang-ninh bạn nát tấm trung-can;
Chỉ non sông giã với cô-thành,
Chén tân khổ nhấp ngon mùi chính khí (9).
Há rằng ngại một phen thỉ-thạch,
Giải trung vị mà tìm tới quân-vương;
Bởi vì thương mòn mệnh tì hưu,
Thà nhất tử để cho toàn tướng-sĩ (10)
Tiếng hiện lệnh mơ-màng
Trước gió ân-tình xưa người bộ khúc thương tâm (11);
Bóng tình trung thấp thoáng dưới đèn,
Phong nghi cũ kẻ liền bằng sái lệ.
Cơ đãng định kíp chầy đánh hẹn buổi,
Xót nồi tưởng doanh sao vắng mặt thân-huân;
Phận truy-tuy gang tấc cũng đền công,
Tiếc vì nhung mạc bỗng thiệt tay trung-trí
Nay gặp tiết tha, bầy tuần uý tế.
Hai chữ cương thường nghĩa nặng,
Rõ cổn hoa cũng thỏa chốn u minh;
nghìn thu quang nhạc khí thiêng,
Sắp mao việt đề mở nền bình trị (12).
Thượng hưởng.
(Theo quyền Lệ-ngữ văn tạp, sách viết bằng chữ nôm của trường Bác-cô số AB 166, tờ 20 a-21 a.)
(Còn nữa)
Ứng hòe NGUYỄN VĂN TỐ
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
1) Quyển Thiên-hòa-doanh bách vịnh chưa ai diễn ra quốc-ngữ.
2) Bài văn tả Võ-Tánh và Ngô-tòng Chu đã có nhiều người in ra quốc ngữ nhưng xét ra có một vài chữ khác với hai bản chữ nôm của trường Bác-cổ; một bản chép trong quyền Quốc văn tùng ký (số ab 383 quyền thượng, tờ 46 4-b) có tên tác giả là Đặng-đức Siêu một bản chép trong quyền Lê-ngữ văn tập (số ab 166, tờ 20a 21a) đề là Tế phò-mã dữ Lễ bộ thượng-thư văn và chua hai câu chữ nho dịch như sau này: “Phò mã bị vây tự đốt mình; Thượng thư bị vây tự uống thuốc độc”. Không thấy sách nàơ chép rằng: “bài này là của vua Gia long tế viếng hai ông trung thần” như lời của mấy nhà xuất bản viết trong sách văn tuyền. Còn những chỗ dị bản, xin kê ra sau đây.
3) Bản đăng dám lay lòng tiết nghĩa.
4) Tiết ngay còn để, tiết ngay hãy để.
5) Nhớ hai người xưa.
6) Giúp đỉnh Hán.
7) Trong thành vững da chia lo, bề ưu quốc đã thấu lên chín bệ
8) Miền biên khổn liền năm chia sức giặc, vững đạo tội chi quản thể là nguy.
9) Chén tân khổ ngọt ngon mài chính khí.
10) Thà nhất tử xin cho toàn tướng sĩ.
11) Ân tín xưa người bộ khúc đau lòng.