Tại sao từ nay nên viết là Trưng Chắc và Trưng Nhì
Trong bài Gia-đình Trưng Vương ở Tri-Tần số 38, tôi có viết: “Theo mục Khảo dị ở phần chữ hán trong cuốn Trưng-vương lịch sử (4) của Cúc-Hương Hoàng tiên-sinh, thì chính thực tên bà (Trưng em) là Nhì, chứ không phải Nhị (2). Vì trong Thần-tích ở làng Lâu-thượng, huyện Bạch-hạc, tỉnh Phú-thọ có nói rằng nhà bà làm nghề chăn tằm, quen gọi cái kén dày là kén chắc, kén mỏng là kén nhì, nên khi hai bà Trưng sinh ra, nhà bèn ứng dụng ngay hai tiếng thuật-ngữ ấy mà đặt tên chị là Chắc và em là Nhì”.
Thế rồi, đến bài “Một tấm bia lịch sử” ở Tri-Tần số 39 trang 12-13, tôi thực tiễn ngay cái ý định: viết tên bà chị là Trưng Chắc, bà em la Trưng Nhì. Viết bài này, tôi xin giải-thích cái cớ tại sao từ nay cần phải nên viết như thế.
Từ xưa đến giờ, ta vẫn viết tên bà chị là Trưng Trắc 徵 側 tên bà em là Trưng Nhị 徵 貳, đó là noi theo sử, sách chữ nho của ta. Mà sử, sách ta xưa lại căn-cứ vào sử, sách của Tàu.
Ban đầu, người Tàu chép về chuyên danh-từ của ta, chắc phải theo âm tiếng nam mà phiên ra chữ hán. Họ chép về việc bà Trưng: “ở Giao-chỉ nữ tử Trưng Trắc phản” ( !). Khi viết đến chữ “Chắc” là tên người, dầu họ có biết nghĩa là chắc nịch không lép đi nữa, họ cũng không được phép dịch là “Trưng Sung-Thực” hay “Trưng Kiên-Hậu” cho sai mất nguyên-âm đi, lẽ tất nhiên, họ phải chọn lấy một chữ bản đồng âm với chữ “Chắc” ấy mà chép vào, vì thế họ mới phải hạ đến chữ “Trắc” này.
Xưa ta theo văn hóa Tàu, học bằng chữ nho, viết bằng chữ nho, cho nên đối với tên hai bà Trưng, từ sử sách bằng chữ hán đến những ấn-loát-phẩm bằng chữ nôm, ta đều viết chữ “Trắc” và chữ “Nhị” theo y như trong Sử-ký, trong Hậu Hán thư, Mã-Viện truyện, Lưu-long truyện của Tàu cả.
Nếu, về sau, không có thứ quốc-ngữ như ngày nay, cần phân-biệt “tr” với “ch” thì việc này không thành vấn-đề. Vì dù viết chữ “trắc” nhân đứng bên chữ “tắc” hay trắc chấm thủy bên chữ “tắc” hoặc trắc là “xế”, trắc là “bằng rắc” đi nữa cũng vẫn chỉ đọc một âm giống nhau thôi, người ta cũng không phân-biệt rạch-ròi cho lắm.
Sở-dĩ nó thành vấn-đề là vì từ sau khi âu-hóa, ta dùng chữ quốc-ngữ để viết sách, viết báo, nếu nhầm “tr” với “ch” thì người đọc sẽ hiểu khác nghĩa đi. Vì theo các sử, sách chữ nho và chữ nôm của ta xưa viết chữ “Trắc” nhân đứng bên chữ “tắc”, và chữ “Nhị” là “nhị kép”, nên các sách bảo quốc văn trước giờ vẫn viết là Trưng Trắc và Trưng Nhị.
Vậy cử viết như cũ có phải là dấu-hiện tôn kính vĩ-nhân ? Quyết không. Vì nếu cứ viết mãi là “Trắc” 側 và “Nhị” 貳thì tên hại vị quán thế nữ anh hùng ấy chẳng có nghĩa gì là hay cả ! Đây, trong Từ-nguyên của Tàu giải-thích chữ Trắc ấy có bốn nghĩa: 1 Bên, bên cạnh 2: Nghiêng-ngả; 3 Thấp hẹp; 4.Riêng.
Còn chữ “Nhị” (nhị kép)? Ngoài 6 nghĩa không ăn-hiệp ra, chỉ có một nghĩa đáng chú ý là; giống nghĩa với nhị = (nhị đơn) là hai, tức là nhì.
Quả vậy, nếu viết chữ “Trắc” theo nghĩa hán-văn thì chẳng có gì là hay cả mà trái lại, chỉ có những ý-nghĩa không đẹp thôi. Lại nếu hiệu chữ “Nhị” theo nghĩa chữ nho, thì người ta sẽ nhận ngay là phụ, là phó nếu không nghĩ đến những nghĩa “không hay” như là nghi-nhị, là hai lòng, là sai-lệch. Như vậy còn gì là cái chân ý “cố danh tự nghĩa” theo lối đặt tên của ta nữa !.
Có người bảo: Tên bà em là Nhị tức là phó, là phụ, thế rất hợp với địa vị của bà, cần gì phải theo tiếng ta mả đổi là Nhì nữa ? Thưa: bà Trưng em tuy đứng vào địa-vị phó-vương, đóng vai phụ-động trong cuộc khởi nghĩa đánh Hán đấy thật, song đó chỉ là kể về mặt công, mặt xã-hội, chứ về phần gia-đình, bà là em ruột của bà Trưng-Chắc. Nay kêu bà Nhì theo như trong Thần-tích xã Lâu-thượng đã chép, thì rất hợp lẽ, vì vừa giữ được cái nguyên lý đặt tên theo thứ-tự chị em trong nhà, vừa tiêu-biểu được cái bản-sắc, cái đặc-tính của dân tộc Văn-lang, khiến người thoạt nghe đến tên đã nhận biết ngay được các “màu-sắc xứ-sở”. Hiện nay, ở vùng quê, người ta vẫn dùng tiếng “Nhì” để chỉ người em trai hay người em gái thứ hai: ông nhiễu Nhì, bà đồ Nhì. Vậy sao ta lại không muốn trả cái tên Nam cho người Nam mà là một tên chính-thật của người ta ?
Phải, có lý lắm, nhà sẵn làm nghề chăn tằm, khi đặt tên cho hai con, người ta tất nghĩ ngay đến việc rất dễ, rất tiện là: đem hai tiếng thuật-ngữ ra mà ứng-dụng: kén chắc là chị, kén nhì là em.
Ta đừng cho thế là cẩu-thả. Vì tâm-lý người xưa rất đơn-giản, làm gì thường cũng muốn cho tiện việc và dễ nhớ, nhất là muốn cho vừa tầm mọi người. Nên nhớ rằng trước đây hàng ngót 2000 năm, người mình làm gì đã được tinh thông Hán tự mà nhất nhất đặt tên đều dùng chữ nho ?
Đến ngay đời Phùng An đã ngang với nhà Đường (618-906), đời Đinh Tiên-hoàng đã ngang với nhà Tống (960-1127) bên Tàu, thế mà trong khi đặt tên hiệu cho cha, cho vợ: một đằng còn gọi là “Bố-cái đại-vương”, một đẳng còn gọi là “Ca-ông” đều là những tiếng đặc An-nam, huống chi ngược mãi tận lên hồi vua Trưng là đời cổ ?
Những chứng-cở tôi vin ra đó đủ tỏ một cách vững-chãi rằng chính tên hai bà Trưng đều đặt theo tiếng nam là Chắc, là Nhì, chứ không phải là Trắc, là Nhị như xưa nay vẫn viết.
Vậy, trả lại sự-thực cho lịch-sử, tôi mong rằng sách báo quốc-văn của ta từ nay về sau nên viết cho nhất-trí là Trưng Chắc và Trưng Nhì cả.
“Danh có chính thì lời nói mới thuận”. Nếu cười là “hiếu sự” thì tôi xin hỏi: Tại sao Tiêm-la phải đổi là Thái-lan và Tân-gia-ba phải đối là Chiêu-nam kia chứ?
HOA BẰNG
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
1) In tại nhà in Đuốc Tuệ, 1937.