Thanh hương nhã cú (P-5): Khi bị cha mẹ ghét, con nên làm thế nào?
Áo bông lau của Mẫn Tử Khiên
Có một câu chuyện như sau, vào thời Xuân Thu có một người tên là Mẫn Tổn, tự Tử Khiên, là học trò của Khổng Tử. Mẹ đẻ của Mẫn Tử Khiên đã qua đời khi ông còn rất nhỏ; cha ông đã lấy một người mẹ kế tên Lý Thị. Lý Thị lại sinh được hai người con trai; bà đối với hai người con đẻ của mình rất tốt nhưng lại đối xử rất tệ với Mẫn Tử Khiên. Mùa đông, Lý Thị cho hai con đẻ của mình mặc quần áo có đệm bông, nhưng lại để cho Mẫn Tử Khiên mặc quần áo đệm bằng bông lau. Ai cũng biết rằng áo bông mới giữ được ấm còn áo bông lau thì không thể.
Một hôm, cha của Mẫn Tử Khiên đi làm ăn xa về, dự định cưỡi xe ngựa đi thăm người thân và bạn bè, nên muốn Mẫn Tử Khiên chuẩn bị cỗ xe. Khi ấy ngoài trời đang ào ào gió bấc, tuyết rơi trắng xóa khắp trời, Mẫn Tử Khiên mặc áo rét làm bằng bông lau mỏng manh nên bị cóng đến nỗi toàn thân run rẩy, tay cứng cả lại, không cầm nổi sợi dây thừng khiến sợi dây rơi xuống đất. Khi ấy người cha cho rằng Mẫn Tử Khiên lười biếng nên đánh đòn. Khi cây roi vừa hạ xuống, những đường may và sợi vải trên tấm áo bông lau nhẹ mỏng ấy liền rách toạc ra. Người cha trông thấy mới chợt hiểu ra mình đã trách lầm con trai, cũng hiểu ra Lý Thị bấy lâu bạc đãi con mình ra sao. Điều này khiến người cha giận dữ, trở về nhà muốn đuổi người mẹ kế ấy đi ngay lập tức. Mẫn Tử Khiên vừa nghe vội quỳ khóc nói rằng: “Mẹ ở thì một đứa con lạnh, nhưng mẹ đi thì ba đứa con lạnh.” Ý ông muốn nói là: Mẹ kế ở lại, chỉ có một mình con chịu lạnh, nhưng nếu cha đuổi mẹ đi thì đến ba đứa con phải chịu lạnh.
Lý Thị nghe xong thì cảm thấy vô cùng xấu hổ. Bà không ngờ rằng bản thân mình đối xử tệ với con trai chồng như vậy nhưng đến thời khắc then chốt, Mẫn Tử Khiên lại thiện đãi với bà như thế. Tấm lòng hiếu thảo ấy đã chạm đến nhân tâm và thay đổi bà. Kể từ đó bà xem Mẫn Tử Khiên như con đẻ của mình, và đối đãi với Mẫn Tử Khiên cùng hai con trai tốt như nhau.
Qua đó thấy rằng, trong cuộc sống, khi người khác đối với chúng ta không tốt, chúng ta cũng dễ đối xử lại với họ không tốt. Nhưng cách hành xử của Mẫn Tử Khiên, cách ông đối diện với những bất công và oan trái trong cuộc sống với mẹ kế, dẫu khi ấy ông chỉ là một đứa trẻ, đã thể hiện khí chất phi thường. Trong mọi chuyện, ông nghĩ cho người khác thay vì nghĩ cho bản thân mình; ông đặt lợi ích bản thân mình thấp hơn lợi ích của người khác; ông nghĩ cho cả gia đình, nghĩ đến hai em trai bé nhỏ; vì thế mà ông luôn âm thầm nhẫn chịu. Tấm lòng hiếu thảo và bao dung ấy cuối cùng đã làm cảm động mẹ kế, giống như câu nói trong “Đệ tử Quy”:
“Thân ái ngã
Hiếu hà nan,
Thân tăng ngã
Hiếu phương hiền”
Tạm dịch:
“Cha mẹ yêu
Hiếu đâu khó,
Cha mẹ ghét
Hiếu mới hay”
Ý nghĩa là, khi cha mẹ yêu thương chúng ta và chúng ta phụng dưỡng cha mẹ, thì cũng thuận với tự nhiên, cũng không có gì là khó khăn cả. Nhưng dẫu khi cha mẹ không yêu thương mà chúng ta vẫn hiếu kính trước sau như một, đó mới là thể hiện phẩm hạnh của bậc hiền lương.
Vua Thuấn hiếu thảo cảm động Trời (đứng đầu Nhị thập tứ hiếu)
Vua Thuấn là người rất có đức hạnh, vì vậy mà vua Nghiêu đã gả hai người con gái cho Thuấn, đồng thời truyền ngôi thiên tử cho ông. Nhưng thuở thiếu thời, Thuấn chỉ là một cậu bé đáng thương và bị ngược đãi.
Mẹ ông mất sớm nên mẹ kế chỉ cho ăn cơm hẩm, mặc áo rách tệ bạc; cha thì không mảy may quan tâm còn nhẫn tâm đổ tội và làm khó ông trong mọi hoàn cảnh. Vì mẹ kế sinh được một người con trai nên bà rất cao ngạo và trong tâm luôn có suy nghĩ độc ác, luôn nghĩ cách giết Thuấn để khỏi phải phân chia tài sản cho Thuấn. Dù bị đối xử không tốt, Thuấn vẫn một mực hiếu thuận, luôn giữ đúng đạo làm con.
Khi Thuấn gần đến tuổi trưởng thành, mẹ kế đuổi ông ra khỏi nhà, và khiến ông phải tự thân kiếm sống. Do sự thương xót của mọi người và tài năng lãnh đạo xuất chúng, Thuấn hễ đi đến đâu cũng đều thu phục được người. Khi ông đến một xưởng gốm, ông chỉ dạy họ và xưởng gốm làm ăn ngày càng phát đạt. Khi ông đi qua một làng nghề chài lưới, ngôi làng đã có thể có phương thức đánh bắt cá hiệu quả và dần trở nên sung túc.
Khi ấy, mẹ kế và em kế (tên Tượng) của Thuấn rất ganh ghét và muốn tìm cách hại Thuấn. Một lần, Tượng đốt kho thóc và lừa Thuấn lên nóc nhà để dập lửa, sau Tượng lấy cái thang đi và để Thuấn mắc kẹt trong đám cháy. Thế nhưng Thuấn dễ dàng thoát ra được. Một lần khác, hai mẹ con Tượng âm mưu chuốc rượu say rồi ném Thuấn xuống giếng, sau đó họ sẽ lấp đất đá. Em gái của Tượng, vốn không hề ưng việc làm của mẹ và anh, đã nói với hai người vợ của Thuấn; vì thế Thuấn đã có chuẩn bị trước.
Dẫu vậy, chưa một lần nào Thuấn tố cáo hai mẹ con họ cả. Về sau, Thuấn còn giúp Tượng có một chức quan trong triều đình. Thuấn rất có trí huệ, ông đã an bài một số người có năng lực chung quanh Tượng, để em trai ông không quản tiền cũng chẳng quản quân, chẳng quản ai thì cũng chẳng thể hại ai. Hơn nữa, mỗi năm Thuấn đều có thể gặp em trai mấy lần; cuối cùng em trai và cha mẹ đều cảm động trước tấm chân tình cũng như đức hạnh của Thuấn, đều được cảm hóa; gia đình trở nên hòa thuận vui vẻ với nhau.
Mạnh Tử nói rằng Thuấn có thể làm hài lòng cha mình và khiến cho bàn dân thiên hạ đều đi thuận trên một quỹ đạo, văn hóa truyền thống có câu:
“Nhất gia nhân, nhất quốc hưng nhân, nhất gia nhượng, nhất quốc hưng nhượng” (một nhà nhân đức thì cả nước nhân đức theo, một nhà nhường nhịn thì cả nước nhường nhịn theo)
Ý nghĩa là, nếu một quân vương có thể thể hiện tấm lòng nhân từ trong chính gia đình hay gia tộc của mình, thì quốc gia đó sẽ có xu hướng lấy nhân từ làm gốc. Nếu một gia đình có thể thực hành lễ nghi và nhường nhịn thì người dân trong quốc gia ấy cũng sẽ theo xu hướng đối đãi khiêm nhường với nhau.
Sự thực là chúng ta không thể chọn cha mẹ, cũng không thể chọn được anh chị em, đời này kiếp này là người một nhà; đó chính là định mệnh và duyên phận. Người xưa nói rằng, “học vấn tại nội bất tại ngoại”, không phải vì anh tốt với tôi mà tôi mới tốt với anh, càng không phải nói rằng tôi tốt với anh để mà anh sẽ tốt với tôi. Mà hàm ý rằng, tôi đối tốt với anh, chính vì tôi đang đi trên con đường đúng đắn của mình, đức hạnh trong lòng tôi tỏa sáng; điều ấy khiến tôi trở thành người sống có trách nhiệm hơn, biết những gì mình nên làm.
Qua câu chuyện cảm động của Thuấn và Mẫn Tử Khiên, chúng ta thấy rất rõ ràng rằng, hai bậc hiền tài này đều có thể lấy đức giải oán, lấy thiện đãi người, cuối cùng đã cảm hóa được nhân tâm, ân ân oán oán bao đời bỗng chốc hóa duyên lành.
Xoay trở lại với con người ngày nay, cho dù thế giới bên ngoài có đối xử với chúng ta như thế nào đi nữa, chúng ta nên có thể làm được không oán không hận trong tâm, có thể lùi một bước biển rộng trời cao, đặt mình vào vị trí người khác, suy nghĩ cho người khác trước, xem việc này đối với họ có phương hại gì không, có chịu đựng được không. Nếu làm được như thế, quả thực sẽ chẳng có mâu thuẫn và oán hận nào có thể tồn tại hay phát sinh; bởi vì khi ta thay đổi thì đất trời cảm ứng, hoàn cảnh thay đổi, lòng người cũng thuận theo đó mà chuyển theo. Trăm vạn sự lành lại mỉm cười với chúng ta.