Thành Thăng Long với cuộc đổi thay I
Có kèm mấy bức bản đồ cổ kim để tiện kê cứu
Thành Thăng Long tức là Phượng thành đời cổ, ở vào khu vực thành Đại La. Đời Tràng Khách nhà Đường năm thứ tư (824), Lý Nguyên Gia làm quan đô hộ, thấy phủ thành có nghịch thủy, sợ có nhiều người hay, sinh ra ý bội phản, nên bỏ Phượng thành, dời phủ trị ra gần sông Tô Lịch, lập ra một thành nhỏ.
Khoảng năm Đại Trung (817-859), Vương Thức sang làm đô hộ, cho giống nhiều cây vải xung quanh để làm lũy, bên ngoài giồng rất dày các thư tre gai, nên gọi là Trúc thành
Năm Hàm Thông thứ tư (863) Cao Biền làm tiết độ sứ quân Tỉnh hải, chiếm cứ phủ thành, rồi đắp ra thành Đại La.
Đời Lý gọi là Thăng Long; đời Trần gọi là Trung Kinh; đời Hồ gọi là Đông Đô ; bồi Minh thuộc gọi là Đông Quan; đời Lê gọi là Đông Kinh; đời Quang Thuận nhà Lê lại gọi là Trung Đô, Đến bản triều, đời
1 Điện Kính thiên
2 Điện thị triều, 3 cửa Đoan môn. 4 Điện Chí kính 5 Điện Van tho 6 Đông kinh. 7 Nhà Thái miếu, 8 Cửa Đông môn 9 Cửa Đông tràng an |
10 Cửa Tây tràng an.
11 Chùa khán sơn 12 Đền Linh lang 13 Điện Giảng vũ 14 Trường Hội thí 15 Trường Quốc tử giám. 16 Phủ lỵ Phụng thiên 17 Tháp báo thiên |
18 Phủ Trịnh vương
19 Tòa Tư thiên giám 20 Huyện lỵ Thọ xương 21 Điện Nam giao 22 Huyện lỵ Quảng đức 23 Ngọc hà 24 Cửa Bảo khách 25 Bãi Cơ xá |
Gia Long đổi chữ long là rồng làm chữ long là thịnh, gọi là “Thăng Long”. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) đổi làm tỉnh Hà Nội, nên gọi là tỉnh thành Hà Nội. (Xem bản đồ số 3: và 4) in trong số sau,
Thăng Long dưới triều Lý
Tháng bảy năm Canh tuất (1010) Thuận thiên nguyên niên,vua Lý Thái Tổ thiên độ từ thành Hoa Lư ra thành Thăng Long. Vua sai đắp thành trì ngay ở trên chỗ Phượng thành ngày trước và lập ra các cung điện. Ở giữa có điện Càn nguyên, hai bên tả hữu có điện Tập hiền, điện Giảng Vũ. Thảy đều
1.Thành nội Hà Nội
2 Nhà quán thiếp 3 Trường nuôi ngựa voi 4 Đình hội đồng 5 Chùa Nhất trụ 6 Miếu thành hoàng 7 Đền Trấn vũ 8 Chùa Trấn bắc 9 Núi Sư son 10 Đền Linh lang 11 Chùa An lãng |
12 Đền Văn miếu
13 Huyện lỵ Thọ xương 14 Đền Ngọc Sơn. 15 Hồ hoàn kiếm 16 Trường thi 17 Chùa liên trì 18 Trường đúc tiền 19 Đồn thủy 20 Chùa hàm long 21 Sở dưỡng tế 22 Đền hai bà 23 Ô Lương yên 24 Ô Kim liên |
25 ô Thịnh hào
26 Ô Cầu giấy 27 Ô Thụy chương 28 Ô Yên phụ 29 Cầu Nhân mục 30 Chùa Báo thiên 31 Hồ tú uyên 32 Hồ bẩy mẫu 33 Đống đa 34 Bãi đồng nhân 35 Đình Hội quán 36 Hồ trúc bạch 37 Hồ tây |
có sân rồng gọi là Long tê. Phía sau điện Càn nguyên lập ra điện Long an và điện Long thụy, có hai cung gọi là Thúy hoa và Long thụy, đề cho các cung tần ở. Có kho tàng và . Xung quanh thành có bốn cửa: Cửa Nam ở đằng trước gọi là Đại hưng môn, cửa Đông gọi là Tường phù môn, cửa Bắc gọi là Quảng đức môn, cửa Tây gọi là Diệu đức môn. Ở trong thành còn lập ra chùa Thiên ngự, chùa Vạn Tuế và cung Thái Thanh đề thờ phật nữa.
Tháng tư mùa hạ năm Nhâm Tý (1012) có sửa lại điện Long An và điện Long Thụy.
Tháng mười năm Giáp dần (1014) có đắp lại thành đất của thành Thăng long.
Tháng sáu mùa hạ năm Kỷ Tỵ: (1029) niên hiệu Thiên Thành thứ hai đời Lý Thái Tông bỏ điện Càn Nguyên, lập điện Thiên An, hai bên tả hữu có lập hai điện gọi là Tuyên Đức và Diên Phúc, phía đông phía tây lại lập hai điện gọi là Văn Minh và Quảng Vũ, có gác chuông phía trước kẹp điện Phụng Tiên, phía sau lập điện Trường Xuân, bốn bề xây tường gọi là Long Thành.
Đến mùa xuân năm sau (1030), lập điện Thiên Khánh để làm nơi thinh chính, kiều làm nối bát giác, trước sau đều có cầu gọi Phượng Hoàng Kiều. Đắp thành nội gọi là thành Long Phượng
Năm Ất Tỵ (11*6) Thiên phù Duệ Võ thứ 7, lập điện Sung Dương.
Năm …. (1128) Thiên Thuận nguyên niên, lập cung Cảnh Linh.
Năm Ất Hợi (1105) Đại Định thứ mười sáu, lại cung Lệ Thiên.
Biệt-Lam TRẦN HUY BÁ