Thánh thiên công chúa
Sau khi đánh được An-dương vương. Triệu Đà sáp nhập nước Âu-lạc vào quận Nam hải, lập thành một nước gọi là Nam-việt, tự xưng làm vua, tức là Triệu-Vũ-Vương. Vũ-vương truyền ngôi được bốn đời, trong nước được thai-bình thịnh-trị.
Năm Canh-ngọ (111 trước Tây-lịch) vua Vũ-đế nhà Hán sai Lộ-Bác-Đức và Dương-Bộc sang đánh nhà Triệu, lấy nước Nam-Việt, rồi cải là Giao-chỉ bộ, chia làm chín quận và đặt quan cai-trị như các châu-quận bên Tàu vậy:
Các quan Thái-thủ Tầu được cử sang cai-trị các quận, phần nhiều bạo ngược, chính-trị tàn ác. Người Giao-chỉ vẫn có lòng oán-giận, chỉ chờ cơ-hội nổi lên đánh đuổi quân Tàu để khôi phục lại nền độc lập cho non sông đất nước.
Thời ấy, tại làng Bích-uyển thuộc phủ Kinh-môn quận Hải-dương, một vị quan nhà Triện trước là Nguyễn-Huyến, thấy vận nước gian-nan, cùng vợ về quê ẩn-lánh đa mưu-đồ việc nhớn. Muốn che mắt người Tàu, vợ chồng tìm nơi am-thanh, cảnh vắng, chụ-trì tại chùa Cầm-long, tháng ngày lễ Phật sớm trưa cúng giàng nuôi chí khôi phục lại giang-sơn Nam-Việt.
Chẳng bao lâu, phu-nhân thụ-thai đủ 13 tháng, giữa ngày 15 tháng 1 năm Ngọ, sinh một gái mày ngài, mắt phượng, xem ra ngọc-tướng, kim-tinh.
Vì trước ngày sinh-nhật, phu-nhân mộng thấy một người con gái tự xưng là: từ nơi dương đình khâm thụ mệnh trời, xuống đầu nhập thai sinh”, nên lúc sinh ra, vợ chồng rất yêu quý con mà mệnh danh cho con là Thánh Thiện công chúa.
Năm lên 9 tuổi, công-chúa thông minh dĩnh ngộ, học một biết mười, tam phần, ngủ điển, lục thao, tam lược, đều quán thông,
Học đến năm 42 tuổi, đã có tài xuất-chúng: văn-chương quán thế, võ nghệ siêu quần. Công-chúa thường bảo mọi người rằng: Đã sinh ra làm người thì nên như Y, Lã, Tôn, Ngô, lập công nghiệp oanh-oanh liệt-liệt, không thì các bọc da ngựa ngoài chốn sa trường mới phải là đáng mặt một kỳ-nam tử, khỏi mang tiếng hư sinh.
Bao phen đã từng do được chí cha, vì Nguyễn-Huyển thường nhật vẫn đem tâm sự ngụ trong mấy câu thơ ngâm nga cho qua nỗi ưu-tư:
“Từ khi thất quốc, vong gia,
Vợ chồng, con-cái đến nhờ thuyền-môn.
Lòng riêng báo quốc không chồn,
Binh lương chưa chất luôn luôn đã nhiều.
Anh-tài chưa thấy ai theo.
Một mình công việc tram chiều khó đương !”
Một mình ôm một bầu nhiệt huyết ngày quên ăn, đâm quên ngủ, tình nhà nghĩa nước trăm mối vò tơ, nghìn nỗi ngổn-ngang, chẳng bao lâu tuổi già, lực kiệt thụ bệnh hơn một tháng, Nguyễn Huyển qua đời. An-táng tại đất chùa, trên đống gò cao.
Hai mẹ con lưu cư cảnh Phật, mõ sớm, chuông chiều, câu kinh, tiếng kệ, cho khuây nỗi nhớ-thương. Cư tang mới được hai năm, phu nhân cũng theo gót chồng, cưỡi hạc quy tiên. Công chúa xót thương, lệ huyết tuôn rơi: “Cha me sinh ra ta, cao sâu nghĩa nhớn chưa đền! Ngày nay phải lo nối chí nhớn của hai thân, lập nên Đại nghiệp để hiểu dương phụ mẫu thì dù các ngài đã khuất cũng vui cười nơi chín suối”.
Từ đấy, tiềm tâm báo quốc, công chúa mộ đoàn cựu-nghĩa gia thân, cấp dưỡng binh khí lương thực ra công thao luyện kinh luân, chiến thuật. Chẳng bao lâu danh chấn một phương.
Quan Tàu được tin, đề binh khiển tướng, giao tranh mấy trường, đều bị công chúa đánh tan không còn một mảnh giáp mà về. Song hết lượt này lại đến lượt khác, quân Tàu không nản lòng, có sức liều chết để chiến-đấu…
Công chúa tự nghĩ: quân ta ít, quân Tàu nhiều, họ lại luôn có tiếp ứng. Dù ta được nay nhưng cũng không thể nhất đán binh ngay quân Tàu. Chỉ bằng hãy tạm cởi giáp hưu binh, đợi thời khởi sự. Bao nhiêu tướng sĩ đều được lệnh tạm lui về quê quán để chờ ngày dùng đến. Công chúa giải quân xong, bèn lên đường tìm đến thăm người cậu ở huyện Yên dũng vùng Bắc Giang để bàn việc binh cơ.
Ông cậu ngày xưa đã từng làm huyện lệnh Đông triều, bấy giờ tu quan, nổi quân, chống nhau với quân Đông Hán. Nhưng sau thế cùng lực kiệt phải tạm lánh và xã ký hợp huyện Yên dũng để chờ cơ hội.
Mồng bảy tháng giêng công chúa đi tới chùa Ngọc-lâm, phủ Lạng-giang (Bắc giang) thì trời vừa tối bèn vào chùa lên bệ đức chùa nằm ngủ.
Đêm hôm ấy, 13 họ trong làng Ngọc-lâm đều mộng thấy Long-thần bảo cho biết: “Trong chùa hiện do quí-nhân là một vị phò-quốc chưởng-quyền, bản dân nên xin làm thần-tử” .
Sáng hôm sau, dân làng rủ nhau ra chùa, thấy người con gái mặt mũi phi thường đương yên giấc điệp trong bệ đức Ông, ai nấy đều cho là ứng mộng đêm hôm trước. Chờ cho công chúa thức dậy, nhân dân bảo nhau biện lễ khuyên mời. Song công-chúa hẹn khi trở về, sẽ dùng lại Ngọc-lâm.
Nhân dân lưu không được, bền cất 5 viên kỳ-mục theo công-chúa sang ký-hợp”Tới nơi, cậu cháu gặp nhau mừng rỡ. Ông cậu đặt tiệc, triệu các gia-thần, hội bàn quân-quốc cơ-mưu.Cách vài tháng sau công-chúa biệt cậu, về mộ thêm binh-sĩ. Trước khi lên đường, công-chúa không quên ân-cần dặn cậu: “Ta nên đợi cho Giời ứng, người thuận, sẽ khởi sự, không vội gì. Việc nước, cũng giống việc nhà, niền-nguyệt chí công, không một lúc thành được. Cậu nên cẩn-thận, lúc ẩn, lúc hiện, đông, tây tụ tán, chớ họp một nơi.”
Về đến Ngọc-lâm, nhân-dâu đón rước, đại-khai hỷ-ha. Giưa tiệc, công-chúa truyền rằng :– Ta vì việc nước, tới thăm cậu, giữa đường vào ngụ chùa quý xã, đồng dân có lòng tốt đón-mời, thực ta rất lấy làm cảm- kích. Vậy xin nói rõ chân-tình, để mong cùng nhau mưu-đồ việc-nhớn. Hiện nay, giặc Hán hoành-hành, uy-hiếp đồng-bào, bồn-phận làm dân nước ta phải lo đạp đổ cho tiêu-diệt đi, bấy lâu, ta vẫn thề cùng quân Đông-Hán chẳng đội trời chung. Nếu đồng dân một lòng cộng-tác thì xin cùng ta xây đồn, đắp lũy mộ quân-sĩ, tích lương-thảo, để chờ ngày khởi sự”
Dân-tâm đều ái-mộ, một niềm xin theo. Từ đấy, trong làng đắp doanh lũy, mộ binh-đinh. Mới trong một tháng, các tay anh-hung dũng-sĩ các nơi đã về đầu-nạp rất nhiều. Được hơn nghìn quân tinh-nhuệ, công-chúa định ngày cử binh sang hợp với quân-đội của cậu bên Ký hợp.
Trước ngày khởi hành, công-chúa truyền mổ bò, khao quân sĩ, nhân cảm-hứng ngâm răng:
“Thiên-địa sinh ngô nữ-tử-thần,
Trang chi ư quốc, hiếu ư thân.
Càn khôn bất phụ tang bồng chí,
Khả miễn tam quan quốc-sự cần”
Dịch
Vẫy vùng trời sinh ta tấm thân,
Phải trung với nước, hiếu song thân.
Vẫy-vùng cho thỏa lòng hồ-thỉ,
Gióng giả ba quân, sức phải cần.
Cử bình sang Ký-hợp, cậu cháu luận bàn gia-sự, lập đàn cầu khẩn Trời Đất, rồi thưởng-khao quân sĩ. Cậu xưng là Nam thành vương cháu xưng là Thiên-nữ, truyền hịch, nổi trống, phất cờ, thẳng tiến đánh quân Hán.
Thái-thủ Hồ-Công đen quân sự địch, bị đại-bại. Nam-thành-vương chém hơn ngàn tướng-sĩ Đông Hán. Hồ-Công mất vía, chạy thoát vào thành phủ, biểu-tắt về Hán để xin quân cứu-viện.
Hán-đế bèn cử Tô-định đem quân sang Nam-việt, lĩnh chức thái-thú thay Hồ-Công, Hô-công tự động gông giải về Tàu. Tô-Định vâng chiến, thẳng đường tiến quân sang Nam-Việt. Mới bước chân tới đất nước Nam, đã giở ngày thói bạo ngược hung tàn, đi đến đâu cũng uy-hiếp nhân-dân, lấy của, giết người, hãm hiệp đàn bà con gái, làm cho trong nước phải điêu-linh, dân-tình đồ thán !
Thánh-thiên công-chúa được tin Tô-định kéo quân sang, bèn lưu các đạo binh, lập đồn bảo-thủ, rồi về nguyên-quán Hải-dương, thu thập binh mã đề phòng chống với quân Hán.
Công chúa và được hai ngày thì Tô-Địch đi kéo quân đến đánh, Nam-thành vương không chống nổi, bị thua, tử-trận. Tô-định sai chém đầu, treo cột-cờ để thị uy…
Công chúa được tin, rất đỗi thương tâm, thề báo thù cho cậu, giết lũ hung-tàn. Liên-lạc các đồn Sơn-nam, Hải-dương, Ngọc-lâm, công-chúa khao thưởng binh-sĩ, thề một lòng chiến đấu đến cùng.
Ba ngày sau, Tô-định đem quân-khiêu chiến. Công chúa được lợi “dĩ dật đãi lao” lại thêm mưu thần chước quỷ, giáp chiến vài trận đã thắng quân Hán. Quận Hán bị giết, máu chảy đỏ một giòng sông Nhật-đức mà xác quân Hán xuống sông, ở giòng sông, nước phải ngừng trệ ! Tô-Định trốn thoát về thành, đóng cửa thành cổ-thủ.
Công-chúa thu quận kéo sang ký ngôi hợp, giữ Kiên-thành. Trong ba năm trời, mộ thêm quân, tích thêm lương-thảo, luôn luôn khiên-chiếu với quân Hán để giảm lực-lượng của bên địch. Nhân-tài hưởng ứng, mỗi ngày theo một đông; uy-thanh chấn-động bốn phương. Hán-binh không dám tới gần, chỉ cố-thủ thành-trì phòng công chúa tới đánh.
Tô Định là người bạo-ngược, chính-trị tàn ác, nhân-dân đến oán giận. Năm Canh-tí, Tô-Định giết Thi-Sách là một viên huyện lệnh, quan huyện Châu-diên (phủ Vĩnh-tường, tỉnh Vĩnh-yên ngày nay), chém đầu đem về Tàu.
Vợ Thi-Sách là Trưng-Trắc, con quan Lạc-tướng huyện My-linh (nay là làng Hà-nội, huyện Yên-lãng, tỉnh Phúc-yên) cùng với em gái là Trung-Nhị vốn tài kiêm văn-võ, bèn kéo cờ khởi nghĩa đô trả thù chồng, đền nợ nước. Trưng-trắc cử Trung-Nhị làm tiên-phong, truyền lịnh các dụ xa gần, mộ nam nữ chiến-sĩ; lập một đạo quán tính-nhuệ hùng-cường.
Vốn nghe đồn tại huyện Yên-dũng có một vị câu-quắc anh-hùng lập sào huyệt ở xã Ngọc-lâm đắp đồn Ký-hợp mấy trùng, quân mạnh, tướng hùng, đã từng phen làm cho quân Hán phải điêu-đứng, Trung-Trắc sai sứ đến cầu.
Thánh-thiên công-chài đón rước sứ-giả, truyền hội quân-sĩ rồi vui lòng dẫn binh theo sứ-giả. Trống giong, cờ mở, hàng ngũ tế-chỉnh nghiêm-trang, vào thành bái yếu hai bà Trưng. Trưng-Trắc hỏi qua vũ-lược, văn-mô, biết ngay là người anh-tài siêu việt, bèn phong làm Bình tây đại tướng, ban cho kim kiếm long đao, cầm quyền sinh sát.
Đại hội quân sĩ trên Hát môn-giang, Trưng-Trắc lập đàn tràng sa, cáo tế trời đắt khen thưởng tướng-sĩ, tự xưng là Trưng-nữ-vuơng chia quân khởi nghĩa.
Trưng-vương ban cờ lệnh chi-truyền và một lá cờ lớn cho Thánh-thiên công chúa làm tiên phong. Mình tự làm trung doanh còn tả-dực thì Minh công, hữu hành thì Lương công. Trung-Nhị tiếp ứng hậu-quận thủy-bộ.
Các đạo cùng tiến đánh rất hăng-hái. Thánh thiên mình cưỡi ngựa hồng xông vào trận địa như không có người chém được ba tướng giặc treo đầu làm hiệu lệnh giết quân địch rất nhiều. Các đạo theo đánh Tô Định chém được mấy nghìn thủ cấp. Quân giặc chết hại rất nhiều, thây nghẽn đầy sông. Tô Định xông pha ra khỏi vòng vây chạy trốn về Tàu.
Trung-vương quét sạch quân Hán, khôi-phục được giang-sơn, đóng đô ở My-linh, xây thành, đắp lũy, mưu hạnh-phúc cho dân. Lại phong Thánh-Thiên làm Thái-bảo chư-hầu.
Thánh-thiên xin về Hải-dương, bát-yết từ-đường, tỉnh tảo phần-mộ của song thân. Trung-vương ban thưởng 800 nén vàng, vài ngàn cân châu báu gấm vóc và cho ngựa, voi, cờ trống, loan xa, phượng tiễn, lên đường quy-hương.
Về tới làng, trỉnh lăng, tế miền, yến khao cổ-cựu, dân-binh, công chúa lưu mấy tháng, rồi lên miền bắc làm chay ba bảy đêm ngày cho các tại doanh Hợp-phố. Thánh-Thiên xin lập cung-điện dời Kinh-đô sang Hợp-phố, Trung vượng truyền dân dựng ngay Hoàng-hoa lâu tại đó.
Xong rồi công-chúa về Ngọc-lâm phát cho dân-xã 10 nén vàng tựa ruộng làm công-điền và tu-sửa miếu-đình. Công-chúa hồi triều phục mệnh Trưng-vương thuận thiên-đô, truyền cho văn võ quan thần sử sang cung-điện tô-điểm lâu đài cho thêm phần nguy nga tráng-lệ, Kinh-đô di sang Hợp-phố huyện Yên-dũng cơ đồ từ đó cũng như Thái-sa bàn thạch.
Vua tôi yên lạc thăng-bình, miễn binh lương cho dân-gian, trong ba năm thịnh-trị, dân an, nước hòa.
Năm Tân-sửu (41) vua Hán Quang-vũ phong Mã-Viện làm Phục-ba tướng-quân, Lưu-Long làm phó tướng cùng với Lâu-thuyền tướng quân là Đoàn-Chí đem ba vạn quân sang đánh Trung-Vương:
Trưng-Vương họp đinh-thần, bày mưu thiết kế để địch cùng Mã-Viện. Thánh-Thiên Công-chúa đem quân giao-chiến với quân Hán ba, bốn phen, một tay chém non nghìn quân giặc, khiến Hán-binh phải lui sang vùng Mã-giang, biểu tâu về Hán-đế “Nam-bang cho nữ tướng Thánh-Thiên dụng binh như thần, trí dũng thiên-phượng không sao phục được. Xin bộ-hạ phái thêm ít tướng giỏi và tiếp thêm binh-mã sang giúp sức”.
Vua, Tàu cho tướng-sĩ sang ứng-cứu và một truyền nên dùng mưu mà đánh mới có thể hàng được bên địch. Phục-ba tuớng-quân đóng quân ở Mã-giang, kiên binh cố-thủ thành-trí, giả sai một đạo quân từ Bảo-lạc (Cao-bằng) đến động Đại-man vùng Thập-lục-châu (Tuyên-quang) thanh-ngôn là Mã-viện đánh các đạo trên.
Trung-vương tưởng thực, truyền Thánh-Thên hỏa-tốc đem các tướng-sĩ lên cứu miền thượng-du không phòng-bị miền dưới. Không ngờ chính Mã-viện hạ công mặt này, đánh thẳng ngay vào sào-huyệt. Binh quý thần tốc, Trung-vương không kịp đề phòng, vội vàng đem quân ra cự-địch, xung đông đột tây, ra vào chém giết bao nhiêu tướng-sĩ nhà Hán. Một mình đánh suốt ngày thâu đêm, sức đã kiệt, mà vẫn không sao hàng được quân giặc. Thánh-Thiên ở miền thượng-du, được tin Trung-vương đương ở trong tình-thế cấp bách, bèn cải trang phụ-nữ, ngồi trên con long-câu, đem binh kịp và giải nguy cho chủ. Tới thành Ai-châu, huyện thạch-đầu, phủ Thiệu-thiên, thì gặp Trưng-vương bại trận cũng vừa tới nơi. Công chúa dàn quân, ngăn cản quân Hán để Trưng-vương lánh đi nơi khác. Hai Bà Trưng vương chạy về đến xã Hát-môn (nay thuộc: huyện Phúc thọ tỉnh Sơn-tây), thế bức quá, bèn gieo mình xuống sông Hát Giang (chỗ sông Đáy chảy vào sông Nhị-hà giữa ngày mồng 6 tháng hai năm Quý-mão (49).
Sau khi Trưng-vương đã lánh xa Thánh thiên một mình cầm cự với quán Hán, còn chém được non trăm dững-tướng bên địch. Nhưng quân Tàu mỗi lúc một đông, tứ diện giáp cống, Thánh Thiên đánh suốt ngày cho mãi đến khi mặt trời gác núi, sức đã mỏi, lực đã kiệt, quân đã tan vỡ, mới chịu thoái lui vào thành. Về đến thành, đã thấy cờ Hán cấm quanh trong ngoài mà nhìn lại chỉ còn hai trăm thủ-túc người xã Ngọc lâm, Thánh-Thiên nghe nhời tử-đệ rút quân về thành Ngọc-lâm, cho quân sĩ nghỉ ngơi.
Trong khi cùng nhân-dân yến-ẩm, quân Hán kéo đến, vây bọc tứ-vi, rất nguy-cấp. Thánh-Thiên cứ ung-dung thay y-phục, mặc xiêm mũ, phượng-hài, trâm thoa, sắp quân-sĩ, cười nhẹ ra trận. Một mình với hơn trăm dũng-sĩ xông pha trận địa, phá trùng-vi, năm, sáu phen, chém Hán-tướng được trên mười người. Những quán Hán rất đông, tuy chết hại rất nhiều mà số quân Tàu mỗi lúc kéo đến một lắm.
Thánh-Thiên công-chúa kiệt sức “quả bất địch chúng” bèn vượt qua trùng-vi, chạy thẳng ra bờ sông Nhật-đức, phóng; ngựa nhẩy xuống giòng sông tuân-tiết. (1)
Từ đó, nước ta lại thuộc nhà Hán như cũ. Dân xã Ngọc-lâm cảm việc thời gian, nhớ ơn báo-quốc, thờ Thánh-Thiên công-chúa làm thành hoàng. Rồi từ nghìn xưa đến nghìn nay hương khỏi không rời. Dưới đây là đối-liễn sao ở đình xã Ngọc-lâm ngày nay thuộc phủ Lạng-giang tỉnh Bắc-giang :
I
Đông-hải chung anh, thiên vị Trưng-triều sinh nữ-tướng.
Bắc nhưng chí phách, nhân ư Ngọc-chử ngưỡng thần-uy.
Dịch
Linh-khi bể đồng, trời giúp nhà Trưng sinh nữ-tướng.
Kinh hồn giặc bắc, người nơi bến Ngọc ngước thần-uy.
II
Hộ quốc, lý dân thành thái-tượng. Điều nguyên, tán hóa, nghiễm khôn nghi.
Dịch
Hộ nước, yên dân, nền thịnh-trị
Giúp trời, đỡ việc, rõ bề trên.
III
Hữu công ư dân, chiêu vật, chiêu văn hợp kính.
Chí nguyên xưng mẫu, tự tề, tự uy, di huy.
Dịch
Đều là tôi con, vật-chất, văn-nghi thờ-phụng.
Đáng là đạo mẹ, đoan-trang. hòa thuận tiếng-tăm.
IV
Đại-hào-kiệt, đại-anh hùng, lực tán Trưng-vương, cổ-kiếm hàn ngưng Xương-thủy nguyệt
Vi huân cao, vi thê thảng, hồn tiêu Hán tặc, kim-hoàn hương dẫn Ngọc lâm hoa.
Dịch
Thực hào-kiệt, thực anh-hùng những khi giúp đỡ vua Trưng, mặt nước sông Thương, gươm báu giăng lồng còn lấp lánh.
Còn bâng-khuâng, còn phảng-phất, sau lúc đuổi tan giặc Hán, cành hoa bến Ngọc, vòng tay thơm nức hãy đâu đây.
V
Đĩnh xuất nhất lưu nhân, sinh vi tướng, tử vi thần, bất hủ huân-danh truyền nữ-sử.
Tổng thành thiên-cổ sự, thần ư Trưng, đích ư Hán, trường lưu miếu vũ trừ tà dương.
Dịch
Bậc nhất trời sinh, sống làm tướng, chết làm thần, huân-nghiệp không mòn trong nữ sử.
Nghìn xưa việc cũ, tôi nhà Trưng, đánh nhà Hán, miếu-đình còn lại dưới tà-dương
VI
Lực tán Trưng-vương hùng-kiện kiêm
Trạch lưu Ngọc-chử lục-ly thoa.
Dịch
Công giáp vua Trưng, thanh bảo-kiếm.
Ơn nhuần bến Ngọc, chiếc kim thoa.
VII
Cân quắc phong phi kinh Hán tặc.
Tinh kỳ nhật lệ tán Trưng-vương.
Dịch
Dải yếm gió bay tan Hán tặc.
Lá cờ trời mở giúp Trưng-vương
NHẬT NAM
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)