Thử viết Việt Nam văn học sử (số 20)
Trước những tấm gương chân-tu hoặc cái chết giải-thoát của các thiền-sư bấy giờ, vua Lý-Nhân không thể làm lơ mà không lên tiếng khen tặng hay bùi ngùi thương cảm, nên đã thốt ra mấy vần thơ đầy vẻ mộc-mạc nhưng huyền-bí:
Tặng Ông Vạn-Hạnh
Vạn-Hạnh thông ba cõi,
Thực hợp lời sấm xưa.
Làng ở gia Cổ-pháp;
Cắm gậy chấn kinh sư. (Dịch)
Khen Giác Hải thiền-sư và Thông-Huyền đạo nhân
Long Giác-Hải như biển;
Đạo thông Huyền lại huyền.
Thần thông kiêm biến hóa:
Đằng Phật, đằng thần tiên ! (Dịch)
Và bài viếng sư Sùng-Phạm như đã chép trong “Thiền Uyển Tập Anh” v.v…
Ngoài mấy bài thơ đó, vua Lý Nhân Tông còn có một bài
di chiếu tức lời trối-trăng, cũng viết bảng Hán-văn nhằm năm ngài 63 tuổi, nghĩa là bài ấy làm khi ngài sắp thăng-hà. Lời văn chân-thành, chất-phác nhưng cảm động lắm. Nay xin Trích dịch một ít ra sau đây. Còn ai muốn coi toàn bài nguyên văn thì cứ kiếm ở trong – Sử-ký và tập Hoàng Việt Văn Tuyển..
“ … Hậu táng đến hỏng cơ nghiệp để trở cho nặng đến hại than tinh, ta cho là rất không nên.
Ta đã ít đực, không có gì làm cho trăm họ được yên ! Đến khi qua đời lại để cho dân chúng, mình sống, khóc hôm sớm, kém ăn, giảm uống, bỏ cả cung tế, để ta lại thêm nặng tội, thì thiên hạ sẽ bảo ta ra sao ?
Tang: hết ba ngày thì bỏ đồ trở, ngừng thương khóc. Táng: theo đường tiết kiệm, giản dị của Văn đế nhà Hán, không xây lăng riêng, nhưng nên để phụ ở bên Tiên đế (mộ vua Lý Thánh Tông)…”
Đọc hết mấy câu di chúc đó, ta phải ngạc nhiên trước cái tinh-thần hi-sinh đến cực điểm của ngài ! Suốt cuốn lịch-sử đế vương Việt-nam, thật ít ai được như ngài chịu sả thân và duy tha đến thế ! Đó cũng do thiên tính và bởi ngài chịu ảnh hưởng lớn của Phật-học,
Tham khảo: Đại-việt sử-ký tiền biên bản ký quyển 1, tờ 43 và Thiền uyển tập anh, Toàn việt thi lục v.v..
Tiết bốn mươi: Đoàn Văn Khâm
Về lịch-sử ông, sách-vở xưa chỉ nói là Công bộ thượng-thư đời vua Lý Nhân Tông. Dẫu vậy, nhờ mấy bài thơ còn sót của ông, ta có thể biết Ông là người học thông cả nho thích. Sinh-bình khuynh-hướng về mặt Phật học, nên ông thường giao-du với khách thiền lâm, có ý muốn từ quan, quấn khăn vải, bận áo nâu, theo học một vị đại đức. Ngặt về việc đời hẫy còn chất nặng trên vai, nên chưa có dịp thực hành được cái nguyện đó !
Ông rất có cảm tình đối với các vị đại-đức hồi bấy giờ. Nay ta thử đọc mấy vần thơ của ông sau đây cũng đủ tưởng-tượng được tấm lòng hiếu học, mộ đức đó là thế nào ?
Tặng Khổng Lộ thiền sư
Cắm gậy non cao, rũ sau trần,
Lặng tìm ảo mộng, hỏi phù vân.
Khát – khao, nhưng khó theo Trừng (1), Thập (2).
Vì vướng đàn cò: đai với cân (Dịch)
Dưới triều vua Lý Nhân-Tông, làn sóng Phật-học vô-cùng mạnh-mẽ, nó trùm ngập cả vương, hậu, sĩ phu, nó lôi cuốn bao người học rộng, tài cao đến núp ở dưới bóng cờ “đại-từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn”. Đọc bài thơ của Đoàn văn-Khám trên dây, ta thấy rõ tâm-sự ông thường bứt-rứt áy-náy vì phải theo đòi quan-liêu Trong triều-ban (lộ quần),vướng víu áo-mão cân đai, không thực hành được cái ý muốn nương mình của Phật !
Khi nghe tin sư Quảng-Trí, một vị đạo cao, đức trọng bấy giờ, tạ thế, ông có viếng một bài thơ:
Lâm tuyền, đầu trắng, lánh phồn-hoa,
Mũ áo non cao, hương bay xa !
Những muốn trùm khăn theo cửa Phật;
Bỗng nghe treo dép, khóa then Già !
Nhà trai, dưới nguyệt, chim kêu rộn!
Bên tháp, bài minh, ai biết a ?
Bạn đạo thôi đừng thương nỗi biệt,
Trước chùa, non nước bóng sư già ! (Dịch)
Cùng một giọng thiết-tha chân-thành đó, ông viếng Chân-Không thiền-sư ở núi Phả-lại:
Gương sáng cao treo cả nội, triều.
Gậy rồng, mây quấn: họp đông sao!
Thương ôi, từng đạo cây tùng đổ
Ngán nỗi nhà nhân cột tuệ xiêu
Tháp mới, dưới máu, mầu cỏ ánh !
Dáng xưa, trên nước, bóng non gieo !
Cửa thiền quạnh-quẽ, ai người gõ ?
Chiều đến, buồn nghe chuông dai kêu… (Dịch)
Đời bấy giờ hãy còn thuần phác, văn thơ không chuộng chạm trổ, giũa gọt; vậy mà ông có nhiều câu kể cũng đẹp đẽ. Thật là người có văn tài !
Tiết mười lăm: Nguyền Khánh Hỉ (1066-1142)
Nối dòng tĩnh hạnh, chắc ông được hưởng cái giáo-dục của nền Phật-học từ thủa bé. Mà quả thật, từ bé ông đã ăn chay.
“Yêu thầy nhưng cũng phải yêu chân-lý”, chính ông là người biết thực-hành lời đó: khi thấy kiến-giải mình không hợp với Bản-Tịch thiền-sư là thầy học, tức thì ông bỏ Bản Tịch, đi tìm chân-lý nơi khác. Nhưng lúc đã tỉnh biết rằng mình sai quấy, ông không ngần ngại lại quay về với thầy cũ: xin lỗi việc mình đã làm.
Nhân đó ta thấy ông là người biết yêu chân-lý và biết hối quá, phục thiện.
Vì nổi tiếng trong tùng-lâm, Ông được vua Lý Thần Tông (1128-1138) vời vào cung khuyết; những lời ứng đối vừa ý rất được nhà vua khen ngợi, kính trọng.
Ông có bài này đáp đệ tử Pháp-Dung hỏi thế nào là thánh với phàm:
Ở đời, đừng hỏi sắc mà không:
Học đạo, chi bằng hỏi tổ-tông.
Lòng giác ngoài trời (?); khôn định thể !
Bụi cát cõi thế: dễ đâu trồng !
Vo tròn nhật nguyệt trong nhân cải,
Cắm chặt kiền khôn ở ngọn lỏng.
Tay năm này đây bao đại dụng !
Ai hay phàm, thánh với tây, đông ? (Dịch)
Ông mất ngày 27, tháng giêng năm Đại-định thứ ba (74 février 1142) (3) thọ 76 tuổi,
“Ngộ đạo ca thi tập” (4) là một tác-phẩm về thơ ca của ông Khánh-Hỉ, họ Nguyễn, người Cổ-giao, huyện Vĩnh-khang
(Tham khảo Thiền uyển tập anh và Gaspardope trang 861 số 40)
Tiết mười sáu: Nguyễn Nguyên Ức (1079-1151)
Ông đạo hiệu Viện-Thông, người làng Cổ-hiền, xưa thuộc tỉnh Nam định, nay thuộc Hà-đông, là một ngôi sao sáng trong phật-học giới, văn-học giới và chính-trị-giới ở đời Lý.
Nối dòng văn-học và tu-hành, ông là con ông Huệ-Dục, tả hữu-nhai tăng-lục dưới triều vua Lý Nhân (1072-1127).
Tư-chất thông sáng, ông học đến chốn, đến nơi, nên thấu được tới chỗ tinh diệu.
Sau khi đã đậu kỳ thi “thiên hạ hoành tài”, lại đỗ đầu khoa thi Tam-giáo (Hội-phong thứ sáu, 1097), ông không chịu nhận chức làm quan. Chỉ làm chân “nội cung-phụng pháp”, ông tùy cơ mà diễn dạy. khiến người giác ngộ, nhận-lĩnh được chỗ yếu-chỉ, tránh được điều lầm, chữa được cái dại. Nhờ tay ông đào-tạo, nhiều người thụ-nghiệp đều được nổi tiếng ở đời bấy giờ.
Về chính-kiến, ông chủ-trường cải thuyết nhân trị. Ông cho rằng vận-mệnh một nước quan-hệ ở như hạng người cầm quyền. Nếu hạng người đó tốt thì trước thịnh-trị, trái lại, tất phải suy vong. Cái cớ thịnh hay suy, trị hay loạn là do nơi đế-vương dùng quân-tử hay tiểu-nhân. Có thể ví một nước như cái đồ dùng: nếu đặt vào nơi yên ổn thì yên ổn; bằng để vào chỗ nguy thì tất nguy. Mà cái cơ hưng, vong, trị, loạn bao giờ cũng phải dần dần, chứ không một chốc, một lát mà xảy ra đâu. Ví như bốn mùa và thời-tiết nóng rét cũng phải chuyển-vần ngầm ngầm, há phải thình-lình mà thay đổi hẳn ? Vậy, ông vua muốn cho trong nước thịnh trị thì phải theo gương trời đất, cố gắng không ngừng, giữ đức tốt: sửa mình, yêu người.
Cái chủ-trương của ông về mặt chính-trị (1130) đại-khái là thế.
(Còn nữa)
HOA BẰNG
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
1) Phạt-đồ-trùng
2) Cưu-ma-la-thập.
3) Trong Thiền uyển tập anh có chua thêm: theo Sử-ký (?), thì trái lại, ông mất năm Thiên-chương bảo-tự thứ ba (1135).