Thử viết Việt nam văn học sử (số 26)
Tiết hai: Trần Thái Tông (1225-1258)
Trong bài “Lệ-ngôn” ở bộ Toàn Việt thi-tập mà một ông bầy-tôi nào đó của nhà Lê đã vâng mệnh vua, đứng biên tập, có phê-bình về mặt văn-học của các vua Trần rằng: “Tháo hứng di khoáng, kỳ tình cao nhã, phong-vị dật nhiên do tồn. Tuy thiền ngữ vi văn, diệc túc kiến đương-thi chính hóa thanh âm chí nganh khái …”. Nghĩa là “… Mượn hứng thì bằng-phẳng rộng rãi, gửi tình thì cao siêu nhã-nhặn, phong-vị hãy còn đầy-dẫy ở đó. Tuy trong thơ văn có dùng tiếng bên nhà Phật, nhưng đã thấy được đại-khái cái thanh-âm của chính-trị và giá hóa ở đời bấy giờ”.
Đứng đầu thế hệ nhà Trần, ấy là vua Trần Thái-Tông (4225-4258). Thế thì mấy lời phê-binh trên đây, lẽ tất nhiên, có thể dùng làm lời khơi mào cho một đoạn văn-học về phần chữ hán của đời Trần (1225-1400) mà vua Trần Thái được kể là một tên lính tiên-phong.
Ngân húy là Trần Cảnh, trước lại có tên là Bồ, là con thứ Trần Thừa và Lê-thị, người làng Tức mặc (Thiên-trường, nay thuộc Nam – định), đời làm nghề chài lưới.
Ngài sinh ngày 16, tháng 6, năm mậu-dần, niên-hiệu Kiến-gia thứ tám (1218) đời vua Lý Huệ-Tông (1241-1224), mất ngày mồng một tháng 6 năm Bảo phù thử năm (1273). Ngài – theo Sử chép – mặt rồng, mũi cao (long chuẩn, long nhan); tính-nết rộng-rãi, nhân-hậu và có đại-độ. Lại theo trong bài chiếu làm lời Lý Chiêu-hoàng nhường ngôi cho Trần-Cảnh, thì ngài là người “văn chất bân bân, thành hiền thân quân tử chi thể; uy-nghi ức ức, hữu thành thần văn võ chi tư…” Nghĩa là đủ cả văn-vẻ lẫn chất mộc-mạc, thật là bậc hiền-nhân quân-tử; oai nghi thì cần-thận kín-đáo, có cái tư-cách văn võ thánh thần.
Hồi 8 tuổi, ngài làm Chi-ứng cục Chi-hậu-chính dưới triều nhà Lý, được vào hầu bà Lý Chiêu Hoàng ở trong cung. Ngày 12 tháng chạp năm Lý Chiêu-hoàng Thiên-chương-hữu-đạo thứ hai, được Chiều-hoàng nhường ngôi, ngài lên ngai hoàng-đế, đổi niên hiệu là Kiến-trung (1225-1231).
Công-cuộc chính-trị của ngài thế nào, Quốc-sử đã chép cả. Nay tôi chỉ nói về những việc có dính líu đến văn-hóa và đời văn-học riêng của ngài :
Từ đời Lý (1010-1224), tuy đã có khoa-mục đểkén lựa kẻ sĩ, nhưng chưa chia ra đằng-đệ. Đến năm Thiên-ứng-chính-bình thứ nhất (1232), mới đặt ra tam giáp, định thứ tự trên dưới trong ngạch khoa-cử (4). Còn phép tuyển-sĩ thế nào thì chưa tường. Năm Thiên-ứng-chính-bình thứ mười lăm (1246), định rằng chức tể tướng, lựa dùng người trong tôn-thất, nhưng phải là người hiền-năng, có đạo-nghệ và thông Thi, Thư.
Như vậy, thông Nho là một trong những điều-kiện của người trong họ nhà vua được lựa làm tể-tướng. Tháng bảy năm ấy (1246), bắt đầu định niên hạn khoa thi-cử bảy năm một lần “đại-ti”, nghĩa là mở cuộc so-sánh lựa-lọc kẻ sĩ bằng phép thi-cử một cách quan-trọng: Ở nước ta, phép thi có hạn năm là bắt đầu từ đó.
Tháng Hai, năm Thiên-ứng chính-bình thứ mười sáu (1247), mở khoa Thái-học-sinh (tức như tiến-sĩ). Khác với lối trước trong cách lựa lấy kẻ si chi chia làm giáp ất, bây giờ đặt ra tam khởi (2). Có 48 người do khoa Thái học-sinh ấy mà xuất thân.
Tháng tám năm ấy (1247), thi tam giáo Nho, Thích, Lão (3) Hễ ai thông cáo khoa tam giáo thì được đỗ, chứ không như trước riêng dành kỳ thi ấy cho con các nhà Nho, Thích, Lão kế nối nghiệp nhà. Khoa thi tam giáo này chia ra làm hạng giáp và hạng ất.
Tháng Sáu, năm Nguyên-phong thứ ba (1253) lập Quốc-học-viện. Khi làm xong viện, nhà vua sai tô tượng Chu-công, Khổng-tử và Mạnh-tử; lại vẽ tượng thất thập nhị hiền để thờ. Tháng chín năm đó (1253), xuống chiếu cho học-giả trong nước vào Quốc-học-viện giảng Lục Linh, Tứ thư.
Nhận mấy việc trên, ta thấy đời vua Trần-Thái bấy giờ, tuy mô đạo Phật, nhưng đã có cái khuynh hướng suy-tôn Nho-học rồi.
Tháng hai, năm Nguyên-phong thứ sáu (1256) thi Thái học-sinh, những chia làm hai khu: từ Thanh-hóa trở vào nam là Trại, từ Thanh-hóa trở ra bắc là Kinh. Cho nên, khoa ấy, có kinh trạng nguyên và Trại trạng-nguyên (4). khác với trước mỗi khi thủ sĩ, chỉ lấy có một trạng-nguyên thôi.
Trên đây tôi đã lược kê những chính-sự của vua Trần Thái có quan-hệ đến nền văn-học ở thời bấy giờ.
(Tham-khảo: Đại-Việt sử-ký bản-kỷ toàn-thư, Trần kỷ; Đại Việt sử ký chính-biên; Khâm định Việt-sử Thông-giám cương mục, quyền 5-6). Còn tác-phẩm của ngài này còn những gì ? Theo Đại-việt sử-ký toàn-thư, Thánh đăng ngữ lục và Toản Việt thi tập, v.v…thì vua Trần Thái có những tác-phẩm này hoặc làm ra sau khi vạn cơ nhàn hạ hoặc sở đắc ở những lúc thành tâm tu tri ;
1) Bài minh do chính ngài viết ban cho các hoàng-tử để dạy về trung, hiếu, hòa, tốn, ôn, lương, cung, kiệm (Nguyên-phong nguyên niên, 1251).
2) Bài bia đền sinh-tử ông Trần Thủ-Độ do chính ngài soạn để tỏ ý sủng ái Thủ-Độ một cách khác thường. (Khâm-định Việt sử thông giám cương mục, chính biên quyển 7, tờ 6).
3) Hai bài thơ còn sót lại; Tống Bắc-sứ Trương Hiển-khanh và Ký Thanh-phong am tăng, thỉnh chính (có chép trong Toàn Việt thi tập, v. v.).
4) Văn tập một quyển (5).
5) Thiền-tông chỉ nam ca một quyển (6).
6) Thiền tông khóa hư mười quyền (7).
Sau khi đã kê xong cái bản thống-kê nhỏ về tác phẩm của ngài rồi, ta thử dựa vào những áng văn của ngài còn sót lại mà phân-tích sơ qua:
Trong vua Trần Thái, ta nhận thấy ngải vừa là nhà thơ, vừa là nhà triết học. Thơ ngài chẳng những đã đi sâu vào chỗ xảo-diệu của từ chương, mà lại tặng người đọc một thứ hương-vị của nhà đạo-học nữa. Như hai câu tam, tứ trong bài tiễn sứ Tàu là Trương Hiển-Khanh (8):
“Mã thủ thu phong xuy kiếm giáp.
Ốc lương lạc nguyệt chiếu thư am”.
Dịch:
“Đầu ngựa, gió thu phào kiếm giáp (9).
Sà nhà, trăng lặn chiểu thư am.”
Hai câu ấy có một ý man mác tiếc biệt tràn-trề ra ngoài lời nói khiến trong lúc khách lên ngựa, chủ dừng chân, đôi bên không khỏi bùi-ngùi vì chén quan họ ngây ngất.
Lại như câu:
“Phong đã tùng quan, nguyệt chiếu đình,
Tâm kỳ phong cảnh cộng thê-thanh” (10).
Dịch:
“Cửa thông, gió đập; sân, trăng soi…
Như cảnh, lòng mong cũng mái ngời”
Hai câu trong bài gửi cho vị sự am Thanh-phong ấy, tác-giả đã tả được cái ôm-dịu, cái thanh-thú của cảnh nhà chùa, mà lại biểu-lộ được cái tâm hồn những muốn lâng-lâng sạch bụi.
(Còn nữa)
HOA BẰNG
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
1) Trường Hanh (người Trường-tân thuộc Hồng-châu) và Lưu Đạm đỗ đệ nhất giáp; Đặng Diễn và Trịnh Bẫu đỗ đệ nhị giáp; Trần Chu-Phổ, (nguời Tế-giang thuộc Bắc-giang) đỗ đệ tam giáp.
2) Nguyễn Hiền (người Thượng-hiền thuộc Thiên-trường đỗ trạng-nguyên; Lê Văn Hưu (người Đông-sơn thuộc Thanh-hóa) đồ bảng-nhỡn; Đặng Ma-La (người Chương đức thuộc Sơn-nam) đỗ thám-hoa
3) Ngô Tấn (người Trà-lộ) trúng giáp-khoa; Đào Diễn, Hoàng Hoan (đều là người Thanh Hóa) và Vũ Vị-Phụ (người Hồng-châu) trúng ất-khoa,
4) Khoa ấy Trần Công-lặc, người Thanh-lâm thuộc Hồng-châu, đậu Kinh trạng-nguyên; Trương-San người Hoành-Sơn thuộc Bố chính đỗ Trại trọng-nguyên; Chu hình, người Tế-giang thuộc Bắc-giang, đậu bảng-nhỡn; Trần Uyên, người Đường-hào thuộc Hồng-châu, đậu thám-hoa và 43 thái-học-sinh.
5) Tập văn này thất truyền rồi. Không rõ có kể-cả thơ vào đó không:
6) Trong Thánh đăng ngữ lục chép rằng: vua Trần Thái thường đọc kinh Kim cương, đến câu “ưng và sở trụ nhi sinh kỳ tâm” ngài trầm mặc ngẫm nghĩ, rồi thoát nhiên đại ngộ. Ngài bèn đem những cái mình đã ngộ y mà làm ra “Thiền tông chỉ nam ca”. Không rõ tác-phẩm này hiện nay ở bên nhà chùa có còn giữ được không. Tôi có được đọc cuốn “Trần triều thiền tông chỉ nam truyền tam quốc ngữ hành” thấy không phải là bài ca trên.
7) Bản Khóa hư ở các chùa bây giờ chỉ có ba quyển, thượng. trung, hạ.
8) Nguyên văn bằng chữ hán, toàn bài như vầy:
Cố vô tặng báo từ hoa tàm,
Cực mực nang cao, y bất khám!
Mã thủ, thu phong xuy kiếm giáp.
Ốc lương lạc nguyệt chiến thư am.
Mạc không nạn nhậm nhạc quy bắc.
Địa noãn sầu văn yến biệt nam.
Bắc khứ, vị tri khuynh cái nhật,
Thi thiên liểu vị đáng thanh đàm.
9) Kiếm giáp nghĩa là cái đài gươm ở giữ khoảng lưỡi và chuỗi gươm.
10) Còn hai câu nữa:
Cá tung tư-vị vô nhân thức!