Thử viết Việt Nam văn học sử VII
Tiếp theo của phần VI
Lối thất ngôn gián hoặc có thấy ở bài Cầm ca của Tư mã Tương Như song chưa thành thể thực nhất định…Vậy, đời Hán mới chỉ có lối ngụ ngôn thịnh hành thôi; chứ lỗi thợ thất ngôn phi đến đời Đường thì không đáng kể. (Trung Quốc văn học sử đại cương, trang 142, 113).
III) Phú – Muốn khảo cứu cội gốc lỗi phú? Cứ coi lời lựa
của Ban-Cố ở bài Lưỡng Đô phú thì rõ, vì Ban đã nói ở đó rằng phú là dòng nhánh của lối cổ thi.
Phải, Hầu Tâm Trai cũng nói: “Phú vốn là một lối trong ba trăm bài ở kinh Thi. Phú có chia làm hai thế: Cồ phú và luật phú…
Lối phú ngày xưa thì sơ sài và ngắn lắm. Các bạn thử mở Tả truyện ra mà coi, thì thấy bài Đại Tụy của Trịnh Trang Công và bai Hồ Cửu của Sĩ Vi chỉ vỏn vẹn có mấy câu thôi.
Về sau, bọn Khuất Nguyên, Tống Ngọc, Cảnh Sai dấy lên, mở ra một lối phú rộng rãi, đẹp dē.
Những bài Trường Môn phú, Đăng Lâu phú đều là cách điệu
sót lại của Khuất Nguyên. Người ta kêu nó là lối tao phú.
Đến Hán (206TrJ. C.– 220 s.J.C) Giả Nghị có bài phủ viếng Khuất Nguyên, khi Giả phải giáng làm chức thái-phó giúp Trường Sa vương
Về sau, Đường (618-906) có bài A Phòng Cung của Bộ Mục, Tống (960-1127) có hai bài Tiền và Hậu Xích Bích của Tô Đông Pha đều là những bài danh bút cả. Song những bài như viếng Khuất Nguyên và mấy bài vừa nói đây đều thuộc về lối cổ phú, không bỏ buộc theo luật.
Lối luật phú bắt đầu có từ đời Nam Bắc-Triều (420-618), do bọn Dũ Tín và Từ Lăng khởi xướng ra. Nhưng cách luật thì đến đời Đường mới thật đầy đủ chặt chẽ. Từ Đường trở đi nước Tàu dùng lỗi luật phú đề thi cử.
Lối văn phú đời Tống, đời Nguyên lại là biến thể của lối luat phú..
Còn như lối phổ thông xứ ta mà các cụ ngày xưa thường làm chơi hoặc viết ở trong trường thi thì phần nhiều là lối phú luật. Lối phủ nôm của ta cũng theo lối phú luật của Tàu.
Tại sao gọi là luật phú ?
Là vì bài phú bị viết dưới ngòi bút phải bó buộc theo mực thước phép tắc, như là bị nhốt trong vòng luật lệnh không được ngang trái, vượt qua.
IV) Nhạc phủ Lối “nhạc phú” bắt đầu có từ đời Hán.
Nguyên đời Hán Vũ Đế (2557) đặt ra chức quan Nhạc phủ riêng chuyên về việc hoặc làm thơ đề hiệp với âm nhạc, hoặc nhặt lượm thơ đề ghép vào âm nhạc. Những bài do nhạc phủ chế ra đó kêu là nhạc chương, nghĩa là các bài đàn, bài hát cả âm điệu, có tiết tấu, khi déo dắt, lúc du dương. Đó là ý nghĩa ban đầu của lối nhạc phủ.
Về sau, vì có nhiều mối quan hệ dính líu, nhạc phủ đẻ dần ra thêm những món sau này:
1) Theo tiếng của khúc nhạc xưa đã có mà chế thành thơ;
2) Tự đặt ra khúc nhạc mới ;
3) Bắt chước đặt giống lối cồ;
4) Lấy chuyện cổ làm đầu đề mà vịnh thành bài ;
5) Lối nhạc phủ mới của Đỗ Lăng;
6) Lối nhạc phủ vịnh người và việc trong lịch sử.
Khi những món sản vật phụ ấy đã dần dần ra đời, thì nhạc phủ mất hẳn cái nghĩa chính: dùng làm nhạc chương.
Còn mạng đề của nhạc phủ thì nhiều, đại để như:
a) Ca ; b) Hành ;c) Ca – hành; d) Dân; e) Khúc; ) Ngâm; g) Tù; | h) Thiên; i) Xướng; j) Điệu; k) | Oán ;l) Thán.
V) Từ.- Khuất Nguyên là một tay thi hào nước Sở, chẳng
những sở trường riêng một lối ca, mà lại là ông tổ đẻ ra từ, phú nữa. Trong tập Sở-từ của Khuất có nhiều bài rất dài:
kể riêng một bài Ly Tao cũng đã được tới 2.492 chữ.
Bài Thu Phong của Hán Vũ Đế và bài Quy Khứ Lai của Tấn Đào Tiềm đều thuộc lối từ cả.
Bài Mộc Lan từ vừa là thể văn ký sự, vừa là thể văn trữ tình, dài tới 62 câu, dùng xen cả vần bằng lẫn vần trắc.
Trong lối từ, ta nhận thấy, ở giữa hoặc ở cuối câu thường có chữ “hề”; mà ta vẫn dịch là “chừ” đó.
VI) Hành. – Hành cũng là một chi nhánh trong lối nhạc phủ.
Các bạn có đọc bài Tì Bà Hành của thi sĩ Bạch Cư Dị. Bài đó cũng dài, dài những 612 chữ.
Bài Tì Bà Hành này được Phương Đình Nguyễn Siêu tiên sinh dịch ra tiếng việt rất trôi chảy và đúng tinh thần nguyên văn, song dịch giả làm theo lối song thất lục bát, chứ không theo lối thất ngôn cổ phong như của tác giả họ Bạch.
VII) Điệu. – Trong điệu, có những lối như Hoàng-lịch-điệu và Tây-điệu v.v… Hoàng lịch điệu bắt đầu từ bao giờ và gây ra từ đâu, ta không thể biết được. Vào đời Càn Long nhà Thanh (1736 – 1795) thì lối đó thịnh hành lắm. Lối Tây điệu này, không phải là từ, cũng không phải là khúc, nẩy lên từ đời nhà Minh (1308 -1641), đến đời Càn Long nhà Thanh thì truyền rộng lắm.
VIII) Khúc. – Như trên đã nói, trong nhạc phủ có cả lối khúc. Đời Hán có mười tám bài khúc cổ.
Ở vùng Ngô (Giang Tô) Việt (Triết Giang) có bài khúc Họa Sơn Ký dài tới 59 câu. Nhưng cách đặt không thay đổi: cứ cách hoặc hại, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc tám câu năm chữ thì lại xen vào một câu ba chữ; cứ thế kéo cho đến hết bài.
Còn bài Triết Sương Liễu ở Kinh Sở thì cũng giống lối với bài Họa Sơn Ký, nhưng nó cũng khá dài, dài những 169 câu.
Nhà Nguyễn (1279-1367) có bài Bắc khúc. Trong cuốn Tây
Xương Ký, tác giả Vương Thực Phủ, theo lối Bắc khúc, viết được nhiều bài tả về cái tình bi, hoan, ly, hợp của trai gái. Dưới ngòi bút ba-lan của Vương nảy ra nhiều vẻ biến hóa, khiến người đọc đến tất phải phục tài. Thật là một món giai phẩm về áng văn tả tình viết bằng lối khúc.
Nam khúc là một lối nảy ra từ miền Ôn Châu đời Nam Tống.
(121-1279), đến Nguyên thì bồng-bột tốt tươi lắm. Các bạn đã đọc bản Tỳ Hà Ký của Cao Tắc-Thành chưa ? Ấy, tác giả viết theo lối Nam khúc này đấy. Trong Nam khúc lại có chia ra nhiều xoang khác nhau, như:
Tắm viên xuân,
Giá cô thiên,
Cầm đường nguyệt,
Nhạn nhi vũ,
Tây giang nguyệt,
Nhất tiễn mai,
Trầm túy đông phong
Lạp mai hoa,
Hương la đới, vân vân.
Lỗi khúc còn có nhiều thú chẳng hạn như khúc Bình Sá của đời Thanh (1644-111) lại là một trong lối Sá khúc. Ngoài ra, lại còn có 1ời tạp khúc nữa.
Những lối văn vần Trung-hoa trên đây đều có ảnh hưởng lớn đến văn chương Nam Việt.
Có thể nói, trước khi âu hóa, Ngoài lối “văn vần tổ truyện”, hầu hết vận văn ta đã mô phỏng vận văn tàu mà làm thành lối “văn vần lại tàu” như là đã thấy: (1)
HOA BẰNG
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)
(1) Sách báo tham khảo: “Quốc cổ học đại chương của Tào • Tụ Nhàn,
“Trung Quốc văn học sử đại cương của Cổ Thực (in tại Thường vụ án thư quán, 1929) Bắc sử, Tỳ bà ký, Tây xương ký, Sở từ, Thi kinh, Phân loại phủ học chỉ nam (Sa sơn Dư Bính Chiếu biên tập, mộc bản khắc năm Tự Đức 29 (1876) Đan yên Tập Văn Đường tàng bản), Đường thi hợp tuyển tướng giải (Sơn Âm Lưu báo quân chú giải, bản gỗ khắc năm Đồng Trị thứ ba (1864), Thiền Sơn Kim ngọc lâu tàng bản).